label

Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

Ðức Thánh Cha kết thúc chuyến viếng thăm và về đến Roma bằng an.

Ðức Thánh Cha
kết thúc chuyến viếng thăm
và về đến Roma bằng an


Vatican (RG 29-3-2012) - Sáng ngày 29 tháng 3 năm 2012, Ðức Thánh Cha Biển Ðức 16 đã về đến Roma bằng an, kết thúc tốt đẹp chuyến viếng thăm dài hơn 6 ngày tại Mêhicô và Cuba.
Ra đón Ðức Thánh Cha tại phi trường Ciampino, khi máy bay đáp xuống đây lúc 10 giờ 35, có Ðức Hồng Y Agostino Vallini, Giám quản giáo phận Roma, Bà Bộ trưởng nội vụ Italia, Anna Maria Cancellieri, và đại diện đại sứ quán Mêhicô và Cuba cạnh Tòa Thánh.
Ðức Thánh Cha về đến Roma sau chuyến bay dài hơn 10 tiếng đồng hồ từ phi trường thủ đô La Habana của Cuba. Trong nghi thức tiễn biệt trước đó vào lúc 4 giờ rưỡi chiều giờ địa phương, với sự hiện diện của Chủ tịch Nhà Nước Cuba, ông Raul Castro, các quan chức chính phủ và Hội Ðồng Giám Mục địa phương, Ðức Thánh Cha cầu mong "Cuba trở thành nhà của mọi người và của tất cả mọi người Cuba, trong đó có công lý và tự do, với một bầu không khí huynh đệ thanh thản". Ngài cũng phê bình chính sách cấm vận mà Hoa Kỳ áp đặt trên Cuba từ nửa thế kỷ nay, gây bao đau khổ cho dân lành. Ðức Thánh Cha nói:
"Sự tôn trọng và chăm sóc tự do vốn là điều tâm hồn mỗi người mong ước, đó là điều không thể gạt bỏ, để có thể đáp ứng một cách thích hợp những đòi hòi cơ bản của phẩm giá con người và nhờ đó xây dựng một xã hội trong đó mỗi người cảm thấy mình giữ vai chính không thể chiếu được trong việc xây dựng tương lai cuộc sống, gia đình và tổ quốc của mình".
Ðức Thánh Cha cũng khẳng định rằng: "Thời điểm hiện nay, trong cuộc sống chung giữa con người, trên bình diễn quốc gia và quốc tế, đang cấp thiết đòi phải loại bỏ những lập trường cứng nhắc và những quan điểm một chiều có xu hướng làm cho sự đồng thuận trở nên cam go hơn và khiến cho nỗ lực cộng tác trở thành vô hiệu. Những dị biệt nếu có thì cần phải được giải quyết bằng cách liên lỷ tìm kiếm những gì nối kết, bằng cuộc đối thoại kiên nhân và chân thành, cũng như bằng một ý chí thực thực lắng nghe, đón nhận những dấu chỉ khách quan mang lại những hy vọng mới mẻ".
Ðức Thánh Cha khuyến khích người dân Cuba tìm được nơi Chúa Kitô sức mạnh cần thiết để xây dựng một xã hội liên đới, trong đó không ai cảm thấy bị loại trừ... Ngài giải thích rằng "Con đường mà Chúa Kitô đề nghị cho nhân loại và mỗi người, mỗi dân tộc, không hề cưỡng bách ai, trái lại là một yếu tố đầu tiên và chính yếu giúp họ phát triển đích thực."
Ðức Thánh Cha nói thêm rằng: "Ước gì không một ai cảm thấy bị cản trở không thể tham gia vào công cuộc xây dựng xã hội và phát triển con người, vì bị giới hạn những quyền tự do căn bản của mình; hoặc cảm thấy không bị thúc đẩy thi hành nghĩa vụ đó, vì thờ ơ hoặc vì thiếu những phương tiện vật chất. Tình trạng này trở nên trầm trọng khi có những biện pháp hạn chế kinh tế áp đặt từ nước ngoài, đang đè nặng một cách tiêu cực trên dân chúng".
Sau cùng, Ðức Thánh Cha mời gọi Cuba hãy khơi dậy niềm tin của cha ông, hãy kín múc sức mạnh từ niềm tin ấy để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, tín thác nơi những lời Chúa hứa, cởi mở tâm hồn đón nhận Tin Mừng của Chúa để can tân đời sống bản thân và xã hội một cách chân thực".
Vì trời mưa, nên lễ nghi tiễn biệt Ðức Thánh Cha đã diễn ra ở trong nhà tại Phi trường. Và mặc dù thời tiết không thuận lợi như thế, vẫn có đông đảo dân chúng và tín hữu đứng hai bên đường dài 18 cây số từ tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở trung tâm thủ đô La Habana, để chào từ biệt Ðức Thánh Cha.
Gặp Cựu Chủ tịch Fidel Castro
Cựu Chủ tịch Nhà Nước Cuba, Ông Fidel Castro, 86 tuổi, đã đến gặp Ðức Thánh Cha tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh trưa 28 tháng 3 năm 2012 và hội kiến với ngài trong vòng nửa tiếng.
Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết cuộc hội kiến diễn ra trong bầu không khi thân mật và sống động, ông Fidel hỏi Ðức Thánh Cha về nhiều điều liên quan đến sứ vụ Giáo Hoàng của ngài đồng thời cũng cám ơn Giáo Hội về việc phong chân phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta, đại ân nhân của Cuba, và Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Ông cũng xin ngài vài cuốn sách để tìm hiểu thêm.
Ðức Thánh Cha cho Ông Fidel Castro biết ngài rất hài lòng về chuyến viếng thăm cũng như sự đón tiếp mà chính phủ, Giáo Hội và nhân dân Cuba dành cho ngài.
Cách đây 14 năm, trong cuộc viếng thăm Cuba, Ðức Gioan Phaolô 2 cũng đã hội kiến với Chủ tịch Fidel Castro trong 50 phút.
Một số báo chí tây phương về bình sự kiện trong cuộc viếng thăm vừa qua, Ðức Thánh Cha không được gặp các đại diện của phe đối lập, giống như cuộc viếng thăm trước đây của vị tiền nhiệm. Cha Lombardi nhấn mạnh tính chất mục vụ trong cuộc viếng thăm của Ðức Thánh Cha và nói rằng:
"Mục đích cuộc viếng thăm là khích lệ Giáo Hội địa phương, mang lại cho Giáo Hội một sức sống mới và niềm hy vọng, để Giáo Hội có thể giúp phần của mình. Dĩ nhiên, Ðức Giáo Hoàng cũng nêu lên với chính quyền Cuba nhiều yêu cầu để Giáo Hội được tự do hơn trong cách hoạt động, để tự do tôn giáo được nới rộng, hiểu như một chứng tá đầy đủ về đời sống Giáo Hội, kể cả trong lãnh vực giáo dục, từ thiện, để Giáo Hội có thể đóng góp tất cả phần của mình hầu mưu ích cho toàn dân Cuba. (RG 29-3-2012)

G. Trần Ðức Anh, OP
(Radio Vatican)

Bộ giáo lý đức tin xác nhận việc phạt vạ tuyệt thông 4 Giám mục tự xưng.

Bộ giáo lý đức tin xác nhận
việc phạt vạ tuyệt thông
4 Giám mục tự xưng


Vatican (SD 29-3-2012) - Bộ giáo lý đức tin xác nhận 4 Giám Mục tự phong thuộc Giáo Hội Công Giáo Ucraine nghi lễ đông phương đã bị phạt vạ tuyệt thông và Bộ kêu gọi các tín hữu đừng đi theo các giáo sĩ đó cũng như cầu nguyện cho họ ăn năn trở lại.
Trong tuyên ngôn công bố hôm 29 tháng 3 năm 2012, Bộ giáo lý đức tin xác nhận 4 giáo sĩ tên là Elias Dohnal O.S.B.M, Markian Hitiuk O.S.B.M và Metodej Spirik O.S.B.M thuộc dòng Basilio thánh Giosaphat, và Oberhauser, đã bị trục xuất trước đó khỏi dòng và sau đó tự xưng làm Giám Mục của Công Giáo Ðông Phương, họp thành nhóm gọi là "Các Giám Mục Công Giáo Ðông phương Pidhirci". Nhóm này chiêu dụ một số tín đồ đi theo họ, và tìm cách đăng ký với Nhà Nước Ucraine như "Giáo Hội Chính Thống Công Giáo Ucraine đông phương". Họ cũng quả quyết rằng các vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội có những văn kiện chứng tỏ họ đã thụ phong Giám Mục hoàn toàn hữu hiệu.
Do các hành động gây chia rẽ, làm tổn thương tình hiệp nhất của Giáo Hội, chống đối và vu khống Giáo quyền Công Giáo Ucraine cũng như Tòa Thánh, 4 giáo sĩ này đã bị các tòa án của Công Giáo Ucraine phạt vạ tuyệt thông, chiếu theo các qui luật của Bộ giáo luật Công Giáo Ðông phương. Ngoài ra, các giáo sĩ đã phạm các tội tiếm quyền bất hợp pháp, xách động nổi loại và oán ghét một số vị lãnh đạo Giáo Hội, xúi giục giáo dân bất tuân phục.
Ðứng trước sự ngoan cố không hoán cải của 4 đương sự, Bộ giáo lý đức tin ra tuyên ngôn xác nhận rằng việc truyền chức Giám Mục cho 4 đương sự là vô hiệu lực, không nhìn nhận giá trị của tất cả những cuộc truyền chức từ đó mà ra, đồng thời mời gọi các tín hữu đừng đi theo họ, cũng như cầu nguyện để các thành viên nhóm này hối cải và trở về với sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo. (SD 29-3-2012)

G. Trần Ðức Anh, OP
(Radio Vatican)

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

Thư Mục Vụ Đức Giám Mục Giáo Phận tháng 4 năm 2012


THƯ MỤC VỤ
Đức Giám Mục Giáo Phận
Tháng 4 năm 2012
 
GIA ĐÌNH CỦA THIÊN CHÚA
LÀ DƯỢC MẠ ĐÓN NHẬN ƠN THIÊN TRIỆU
 
          Anh chị em thân mến,
          Trong tháng 4, Giáo hội cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, Ngài vừa là Vị Mục Tử  vừa là Chiên Hiến Tế. Để chuẩn bị cho giáo phận cử hành ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ vào Chúa Nhật IV sau lễ Phục Sinh (29.4.2012), tôi xin gửi đến anh chị em thư mục vụ tháng tư với chủ đề “Gia Đình Của Thiên Chúa là Dược Mạ Đón Nhận Ơn Thiên Triệu”.
          1.Số lượng ơn gọi  linh mục tu sĩ tại nhiều nơi trên thế giới đang có chiều hướng suy giảm. Tại các thành thị của Việt Nam hiện nay cũng đã có dấu hiệu suy giảm này. Có nhiều lý do. Nhưng giáo phận Long Xuyên đặc biệt quan tâm đến tình trạng người giáo dân hôm nay đang dần dà đánh mất cảm thức thiêng thánh. Đây được coi như là nguyên nhân sâu xa của tình trạng suy giảm số lượng ơn thiên triệu ngày nay.
          a/Quả thật, hiện nay, các gia đình công giáo đang đánh mất cảm thức thiêng liêng. Rất đau lòng khi cảm thức thánh thiêng đang bị đánh mất ngay trong bí tích Hôn Nhân. Đối với nhiều người trẻ công giáo ngày nay, hôn nhân chủ yếu được coi như bản hợp đồng của hai cá nhân để thỏa mãn nhu cầu của bản năng, thường là một cách ích kỷ và vô trách nhiệm. Từ đó dẫn đến tình trạng sống thử trước khi cử hành bí tích hôn nhân, rồi phá thai, rồi bất trung, rồi ly dị.
          b/Trong bầu khí của tinh thần tục hóa này, các gia đình công giáo cũng đang đánh mất cảm thức về tính thánh thiêng của chức linh mục. Theo đó, chức linh mục được coi như một giai cấp được xã hội trân trọng, sứ vụ của linh mục được coi như một nghiệp vụ với nhiều ưu đãi, và vì thế, ơn gọi linh mục được coi như một cơ hội tiến thân hoặc đổi đời. Trong bối cảnh trên, cùng với chương trình kế hoạch hóa gia đình và trong một xã hội đang phát triển về kinh tế mà không quan tâm đến phát triển về đạo đức, thì, hoặc là các gia đình không thiết tha gì trong việc cổ vũ cho con em mìnhtheo đuổi ơn thiên triệu, hoặc các người trẻ nam cũng như nữ không thiết tha tìm hiểu ơn thiên triệu.
 
          2.Suy nghĩ như vậy, nên việc cổ vũ ơn gọi trong giáo phận phải là một chương trình tập trung vào mục tiêu khơi dậy ý thức về sự thánh thiêng trong cuộc sống, cụ thể là tái lập và phát huy một bầu khí thánh thiêng trong các cộng đoàn, đặc biệt là cộng đoàn gia đình công giáo.
          a/ Đây phải là cái nhìn thánh thiêng về con người với nguồn gốc từ Thiên Chúa, với ơn gọi từ Thiên Chúa, và với mục tiêu trở về với Thiên Chúa. Với cái nhìn thánh thiêng này, gia đình như một dược mạ sẵn sàng đón nhận ơn gọi linh mục như một ân huệ của Thiên Chúa ban. Và với lòng biết ơn và ý thức trách nhiệm, bậc phụ huynh là các nhà đào tạo không thể thay thế được, cộng tác với Chúa Thánh Thần trong việc nuôi dưỡng và đào tạo ơn gọi, và vào thời điểm thuận tiện, quảng đại tiến dâng con cái mìnhcho Thiên Chúa và Giáo Hội như một lễ vật thiêng liêng.
          b/ Đây phải là cái nhìn thánh thiêng về các cộng đồng cơ bản như gia đình của Thiên Chúa, được gắn kết bởi tình yêu Thiên Chúa, với ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, với các tổ chức theo mô hình hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi là Tình Yêu Hiệp Thông (Eros) và Chia Sẻ (Agape), và với các sinh hoạt với mục tiêu là thi hành thánh ý Thiên Chúa. Chính trong bầu khí thánh thiêng của tình liên đới này mà gia đình như chủng viện đầu tiên, trong đó ơn Thiên Triệu được chăm sóc để lớn lên với Đức Ái Mục Tử và trở thành cây cầu nối kết giữa Thiên Chúa và con người và giữa con người với nhau.
          c/ Đây cũng phải là cái nhìn thánh thiêng về cộng đồng nhân loại như vườn nho của Thiên Chúa. Với cái nhìn đức tin này, nhân loại là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa thánh hóa, là địa chỉ Thiên Chúa gửi người của Ngài đến phục vụ và xây dựng thành “Trời Mới Đất Mới” của Thiên Chúa. Trong cái nhìn này, gia đình trở thành trường đào tạo trong đó chính Chúa Thánh Thần đào tạo nhân sự của Ngài theo mô hình của Chúa Kitô được sai đi, để ơn thiên triệu được chuẩn bị tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô giữa lòng thế giới. 
          Chính trong cái nhìn thánh thiêng của gia đình về con người, về cộng đoàn, và về nhân loại mà ơn Thiên Triệu bắt đầu bước vào cuộc hành trình của đời khó nghèo, vâng lời, và độc thân khiết tịnh như là một ân ban để có thể chu toàn tác vụ rao giảng, thánh hóa và cai quản của một vị mục tử như lòng Chúa mong ước.
 
          3.Cụ thể là, chương trình mục vụ và tu đức dành cho ơn Thiên Triệu của giáo phận phải được thực hiện trong tinh thần đồng trách nhiệm. Đây là trách nhiệm chung của toàn giáo phận, kết hợp với các cộng đoàn giáo xứ, giáo họ, và với các gia đình công giáo.
          a/ Trước hết, các gia đình công giáo của giáo phận Long Xuyên cần nuôi dưỡng cái nhìn thánh thiêng theo cái nhìn của Chúa Kitô Nhập Thể, thấy ta trong anh em, và nhận ra anh em nơi bản thân ta để sống đức tin, đức cậy và đức mến trong bầu khí gia đình. Cụ thể là bậc phụ huynh tổ chức các buổi đọc kinh trong gia đình, khích lệ nhau sống yêu thương phục vụ và hy sinh cho nhau, và cổ vũ cho lòng quảng đại góp phần mình trong sinh hoạt của Giáo Hộivà xã hội.
          b/ Các cộng đoàn giáo xứ, giáo họ tạo bầu khí thánh thiêng theo tinh thần của Đức Kitô “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Cụ thể, trong các sinh hoạt và tổ chức của mình, các cộng đoàn đi vào các hoạt động phục vụ, đối thoại, và hiệp nhất. Đặc biệt, các cộng đoàn sẽ đặt bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm cho mọi sinh hoạt củamình,và cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu trong bầu khí của Thánh lễ và giờ chầu Thánh Thể. Trong bầu khí này, giới trẻ sẽ học hỏi tinh thần phục vụ và tận hiến mình cho người khác theo mô hình của Chúa Giêsu Thánh Thể.
          c/ Cộng đoàn giáo phận xây dựng giáo phận theo ước nguyện thánh thiện của Chúa Kitô “Nên Một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha”. Đây chính là sự thánh thiêng của sự hiệp thông giữa mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận, giám mục, linh mục, phó tế, chủng sinh, tu sĩ và giáo dân. Trong sự hiệp thông này, mọi người đón nhận sự dồi dào ơn gọi hiện có trong giáo phận như một ân huệ Chúa ban với tinh thần đồng trách nhiệm, đồng trách nhiệm tiếp tục cầu nguyện xin Chủ ruộng sai nhiều thợ gặt đến đồng lúa của Ngài, đồng trách nhiệm trong việc duy trì truyền thống đào tạo nhân sự cho tương lai, và đồng trách nhiệm trong việc hàng giáo sĩ, tu sĩ và chủng sinh sống thánh thiện trong ơn gọi của mình để nêu gương sáng cho thế hệ con em.
 
          Anh chị em thân mến,
          Giáo phận sẽ tổ chức ngày Cầu Cho Ơn Thiên Triệu vào Chúa Nhật Chúa Chiên Lành (CN IV sau PS), ngày 29/4/2012. Đây sẽ là cuộc qui tụ các dự tu của toàn giáo phận, cùng với phụ huynh và các linh mục trong ban Mục Vụ Ơn Gọi của Giáo phận, để cổ vũ và cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu trong giáo phận. Trong tinh thần hiệp thông và đồng trách nhiệm, toàn thể cộng đoàn dân Chúa trong giáo phận thiết tha cầu xin Chúa ban cho Hội Thánh Chúa nhiều Mục Tử như lòng Chúa mong ước. Tôi cũng tha thiết xin anh chị em quảng đại đóng góp về phuơng diện vật chất cho công việc đào tạo linh mục, chủng sinh, tu sĩ, dự tu trong giáo phận.
          Ngày 30.4 sắp tới, Đức Cha Cố Gioan Baotixita mừng kỷ niệm 37 năm thụ phong giám mục, chúng ta hiệp ý với Ngài tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho Ngài luôn hồn an xác mạnh để tiếp tục phục vụ Hội Thánh. Chúng tôi nguyện xin phép lành của Chiên Hiến Tế là Đức Kitô Phục Sinh xuống trên anh chị em, đặc biệt trên các gia đình đã, đang và sẽ quảng đại dâng con cái cho Chúa và Hội Thánh.
          + Giuse Trần Xuân Tiếu,
          Giám Mục giáo phận Long Xuyên
 

Ðức Thánh Cha đến La Habana

Ðức Thánh Cha đến La Habana
và chủ sự thánh lễ tại
quảng trường Cách Mạng thủ đô

Ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm của Ðức Thánh Cha tại Cuba: Ðức Thánh Cha đến La Habana và chủ sự thánh lễ tại quảng trường Cách Mạng thủ đô.
Cuba (Vat. 28/03/2012) - Thứ tư 28 tháng 3 năm 2012 là ngày cuối cùng trong chuyến Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI viếng thăm Cuba hai ngày. Ðức Thánh Cha đã chỉ có một sinh hoạt duy nhất là chủ sự thánh lễ tại quảng trường Cách Mạng trong thủ đô La Habana, trước khi từ giã Cuba vào ban chiều để về Roma.
Nhưng trước hết, xin kính mời qúy vị và các bạn cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt của Ðức Thánh Cha chiều thứ ba 27 tháng 3 năm 2012. Sau khi kính viếng đền thánh Ðức Bà Bác Ái Mỏ Ðồng ở Santiago de Cuba, Ðức Thánh Cha đã đi xe ra phi trường quốc tế cách đó 32 cây số để lấy máy bay đi thủ đô La Habana. Máy bay đã cất cánh lúc 10 giờ rưỡi sáng và tới phi trường quốc tế José Martí của thủ đô La Habana sau một giờ rưỡi bay. Ðức Thánh Cha đã được Ðức Hồng Y Ortega y Alamino tiếp đón tận chân thang máy bay, và Ðức Hồng Y giới thiệu với Ðức Thánh Cha các giới chức chính quyền địa phương. Hiện diện tại phi trường có mấy trăm trẻ em và các ca đoàn hát chào mừng Ðức Thánh Cha.
Thành phố La Habana do ông Diego Velazquez thành lập năm 1514. Với biến cố người Tậy Ban Nha chinh phục Mêhicô và Perù, La Habana trở thành hải cảng quan trọng nhất Mỹ châu, vì có các tầu hàng chở bạc về Tây Ban Nha. Năm 1555 thành phố bị người Pháp đảo Corse cướp phá, và năm 1762 bị người Anh chiếm đóng 11 tháng. Sau đó thành phố được củng cố đứng hàng đầu bên Tân Thế Giới. Từ năm 1607 La Habana là thủ đô của Cuba; và với gần 4 triệu dân cư, hiện nay nó là thành phố lớn nhất vùng quần đảo Caraibi. La Habana cũng là trung tâm của ngành kỹ nghệ luyện kim, làm thuốc xì gà, lọc dầu hỏa vv... và có các tầu đánh cá lớn. Thành phố bị ô nhiễm trầm trọng, không có hệ thống thiêu hủy rác, thiếu nước trong lành, và phân nửa nhà cửa rơi vào tình trạng rất tồi tệ, khiến hằng năm có 300 dinh thự bị sập.
Khu phố nổi tiếng nhất là khu phố cổ có các nhà xây thời thuộc địa, và từ năm 1982 nó được tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc cho vào danh sách gia tài của nhân loại. Tại đây có các lâu đài El Moro và La Cabanha, các dinh thự kỷ niệm Cách Mạng, bao gồm cả viện bảo tàng và đài tưởng niệm José Martí, cũng như các hàng quán và nơi sinh hoạt đêm với nhạc phi châu cuba thuộc thập niêm 1950, Tòa thị chính và viện bảo tàng Ernest Hemingway, nơi nhà văn Mỹ đã sống và sáng tác tiểu thuyết trong 20 năm.
Trong số các nhà thờ nổi tiếng trong thủ đô La Habana có nhà thờ Ðức Bà Mân Côi xây năm 1720; nhà nguyện Templete xây năm 1828; nhà thờ và tu viện thánh Phanxicô thành Assisi xây năm 1608, hiện biến thành phòng hòa nhạc và viện bảo tàng; nhà thờ và tu viện thánh nữ Clara, nhưng từ năm 1920 không còn là tu viện nữa; nhà thờ giáo xứ Chúa Thánh Thần xây năm 1640: đây là nhà thở cổ xưa nhất trong thủ đô; nhà thờ và tu viện Ðức Bà Mercede xây năm 1755; và nhà thờ thánh Thiên Thần Bản Mệnh.
Tổng giáo phận San Cristobal La Habana được thành lập năm 1787, rộng hơn 7,500 cây số vuông, có gần 4 triệu dân trong đó có hơn 2 triệu 800 ngàn tín hữu công giáo, bao gồm 107 giáo xứ với 44 linh mục triều và 101 linh mục dòng, 135 tu huynh, 265 nữ tu, 15 đại chủng sinh và 24 Phó tế vinh viễn. Giáo Hội điều khiển 2 học viện giáo dục và 6 cơ sở bác ái xã hội.
Từ phi trường quốc tế La Habana Ðức Thánh Cha đã đi xe về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh, cách đó 18 cây để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đến viếng thăm xã giao Chủ tịch Raul Castro tại Dinh Cách Mạng. Ban đầu dinh thự này là trụ sở của Tòa Án Tối Cao và Tổng Biện Lý. Từ năm 1965 nó là trụ sở của Hội đồng nhà nước, với văn phòng của Chủ tịch Nước, Hội đồng Bộ trưởng và Ủy ban trung ương đảng Cộng Sản Cuba. Ngoài ra còn có một rạp hát, một phòng chiếu phim và một nhà thương.
Xe chở Ðức Thánh Cha đã đến Dinh Cách Mạng lúc 17 giờ rưỡi chiều thứ ba. Chủ tịch Raul Castro đã ra tiếp đón Ðức Thánh Cha và cùng ngài lên lầu một, nơi có phòng tiếp tân. Chủ tịch Raul Modesto Castro Ruz sinh năm 1931. Hồi còn trẻ ông đã tham gia nhiều cuộc biểu tình phản đối tổng thống Fulgenzio Batista. Năm 1953 ông đã cùng anh là Fidel Castro tổ chức một vụ tấn công vũ trang trại lính Moncada ở Santiago di Cuba. Có nhiều người chết và hai anh em bị bắt và bị kết án tù. Sau khi được ân xá, ông Raul đã tham gia cuộc chiến đấu giải phóng Cuba do bào huynh Fidel Castro lãnh đạo năm 1956. Cách mạng chiến thắng khiến cho tổng thống Batista phải bỏ trốn và ông Fidel Castro lên nắm quyền cai trị Cuba. Ông Raul đã từng là bộ trưởng các Lực lượng vũ trang cách mạng, phó bí thư Ủy ban trung ương đảng cộng sản Cuba, phó chủ tịch Hội đồng Nhà Nước, và từ năm 2006 từ từ thay thế ông Fidel Castro, rồi lên làm Chủ tịch năm 2008.
Sau khi hai bên đã giới thiệu các nhân vật của hai phái đoàn, Ðức Thánh Cha và Chủ tich Raul Castro đã hội kiến riêng trong vòng 45 phút. Trong cuộc họp báo sau đó Cha Lombardi Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh cho biết cuộc hội kiến đã diển ra trong bầu khí rất thanh thản và thân tình. Tuy không ai biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện nhưng cha Lombardi nói hai bên đã đề cập tới điều kiện sống hiện nay của nhân dân Cuba và tình hình trong nước. Ðức Thánh Cha đã bầy tỏ ước mong Giáo Hội có thể tham gia vào cuộc sống xã hội một cách tích cực hơn, cũng như diễn tả lòng tin một cách tràn đầy hơn. Ðức Thánh Cha cũng yêu cầu Chủ tịch Raul Castro tuyên bố Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày lễ nghỉ trên toàn quốc, vì nó là ngày nền tảng trong truyền thống tôn giáo của người dân Cuba, y như cách đây 14 năm Ðức Gioan Phaolô II đã xin Chủ tich Fidel Castro tuyên bố Lề Giáng Sinh là lễ nghỉ toàn quốc và đã được chấp thuận ngay trong năm đó.
Theo sau cuộc đàm đạo lâu với Chủ tịch Raul Castro, Ðức Thánh Cha gặp gia đình ông, chụp hình lưu niệm, rồi hai bên trao đổi qùa tặng.
Trong khi Ðức Thánh Cha đàm đạo với Chủ tịch Nước, Ðức Hồng Y Bertone Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh cũng gặp gỡ Phó chủ tịch Hội đồng Nhà Nước và Hội đồng bộ trưởng cùng với các cộng sự viên.
Sau cuộc gặp gỡ Ðức Thánh Cha đã cùng Chủ tịch Raul Castro ra chào đại điện giới truyền thông ở bên ngoài Dinh, rồi Ðức Thánh Cha lên xe về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 4 cây số đễ dùng bữa tối và qua đêm tại đây.
Trong cuộc họp báo ban chiều cha Lombardi giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cũng tiết lộ một chi tiết liên quan tới thánh lễ riêng Ðức Thánh Cha dâng trong nhà nguyện chủng viện Santiago sáng thứ ba. Tham dự thánh lễ có khoảng 10 nữ tu Thứa Sai Bác ái của Mẹ Terexa Calcutta, trong đó có nữ tu Teresa Kerketta người Ấn Ðộ. Như thói quen của các nữ tu Thừa Sai Bác Ái khi khấn trọng các chị chọn một linh mục để hằng ngày cầu nguyện cách riếng cho vị ấy. Cách đây 20 năm, khi vĩnh khấn chị Kerketta cũng đã chọn cầu nguyện cho một linh mục; vị linh mục đó là Ðức Hồng Y Ratzinger. Sau thánh lễ Ðức Tổng Giám Mục Santiago đã giới thiệu chị với Ðức Thánh Cha và chị đã choàng một vòng hoa lên cổ ngài để tỏ lòng qúy mến. Ðức Thánh Cha đã rất cảm động gặp người mỗi ngày đã liên lỉ cầu nguyện cho ngài trong suốt 20 năm qua. Ngoài ra có một ca đoàn gồm 20 thiếu nhi đã hát mừng Ðức Thánh Cha và chụp hình lưu niệm với ngài khi Ðức Thánh Cha rời chủng viện.
Lúc sau 8 giờ sáng thứ tư 28 tháng 3 năm 2012, Ðức Thánh Cha đã đi xe bọc kính rời Tòa Sứ Thần đến quảng trường Cách Mạng La Habana, cách đó 4 cây số để chủ sự thánh lễ cho tín hữu.
Quảng trường Cách Mạng mang tên José Martín là nơi biểu tượng của Cuba, rất rộng có thể chứa tới 600,000 người, và là nơi đã diễn ra biết bao nhiêu cuộc tụ họp của người dân thủ đô. Ông José Martín sinh năm 1853 là một nhà báo kiêm thi sĩ, và là người hoạt động chống lại sự chiếm đóng Cuba của Tây Ban Nha.
Ông bị bắt, ban đầu bị đầy bên Tây Ban Nha rồi bên Mêhicô. Ông đã sống tại Mỹ châu Latinh, Paris và New York trước khi trở về Cuba, và bị giết trong cuộc giao tranh với người Tây Ban Nha năm 1895. Khi còn sống, ông đã rất nổi tiếng vì các bài khảo luận chính trị, và ngày nay ông được coi là một trong các người khởi đầu trường phái thi ca tân tiến của Mỹ châu Latinh.
Ông Antonio Tejero, đặc trách giới trẻ của tổng giáo phận La Habana, cho biết tối thứ ba hàng chục ngàn người trẻ đã tham dự buổi canh thức cầu nguyện suốt đêm trong nhà thờ chính tòa, rồi từ sáng sớm đã rước ảnh Ðức Mẹ Bác Ái Mỏ Ðồng đi ngang qua các giáo xứ, cùng nhập đoàn với giáo dân đi bộ tiến về quảng trường Cách Mạng để tham dự thánh lễ do Ðức Thánh Cha chủ sự.
Xe bọc kính đã chở Ðức Thánh Cha đi một vòng quảng trường để ngài chào biển tín hữu đông đặc khắp nơi khoảng gần 1 triệu người.
Thánh lễ đã bắt đầu lúc 9 giờ sáng. Cùng đồng tế thánh lễ với Ðức Thánh Cha có các Hồng Y và Giám Mục Cuba, đoàn tùy tùng, các Hồng Y Giám Mục khách, và hàng trăm linh mục. Bàn thờ dựng trên khán đài cao có bao lơn mầu xanh. Tượng Ðức Mẹ Bác Ái Mỏ Ðồng mặc áo thêu mầu trắng được đặt phía bên trái bàn thờ. Phần thánh ca do một ban nhạc và mấy trăm ca viên mặc đồng phục mầu tím đảm trách.
Giảng trong thánh lễ Ðức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc. Ngài nêu bật lòng can đảm của ba thiếu niên trong sách Ðaniel, thà chết chứ không phản bội đức tin và bất trung với Thiên Chúa, cũng như lời Chúa Giêsu mời gọi sống trong chân lý để được thực sự tư do. Ðức Thánh Cha nói:
Trong bài đọc thứ nhất vừa nghe ba người trẻ bị vua Babilonia bách hại thích đương đầu với cái chết bị thiêu đốt bởi lửa hơn là phản bội lương tâm và đức tin của họ. Họ tìm ra sức mạnh để "ca ngợi, vinh danh và chúc tụng Thiên Chúa" với xác tín rằng Chúa của vũ trụ và lịch sử không bỏ rơi họ cho cái chết và cho hư không. Thật thế, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con cái Người, và không bao giờ quến họ. Người ở bên trên chúng ta, và có khả năng cứu thoát chúng ta với quyền năng của Người. Ðồng thời Thiên Chúa cũng gần gũi dân Người và qua Con của Người là Ðức Giêsu Kitô Người muốn ở giữa chúng ta.
Trong Phúc Âm Ðức Giêsu tự mạc khải như là Con Thiên Chúa Cha, Ðấng Cứu Thế, Người duy nhất có thể chỉ cho thấy chân lý và trao ban sự thật đích thực. Giáo huấn của Người khơi dậy sự kháng cự và lo âu giữa những người nói chuyện với Người. Người tố cáo họ muốn tìm cái chết của Người, nhưng khuyến khích họ tin và ở lại trong Lời Người để hiểu biết sự thật.
Thật thế, sự thật là một khát vọng của con người và việc tìm kiếm nó luôn luôn giả thiết việc tập tành tự do đích thực. Nhưng nhiều người thích các lối tắt để tránh nhiệm vụ ấy. Một vài người như quan Philatô, cười nhạo khả năng hiểu biết sự thật (x. Ga 18,38) bằng cách tuyên bố con người không có khả năng đạt tới nó, hay từ chối rằng có một sự thật cho tất cả mọi người. Thái độ này cũng như trường hợp của khuynh hướng hoài nghi và chu trương tương đối thay đổi con tim của họ, khiến cho họ trở thành lạnh nhạt, lảo đảo, xa cách các người khác và khép kín co cụm trong chính mình.
Tiếp tục bài giảng Ðức Thánh Cha nói: đàng khác cũng có những người giải thích sai việc tìm kiếm chân lý, dẫn đưa họ tới chỗ vô lý và cuồng tín, vì thế họ khép kín trong "sự thật của họ" và tìm áp đặt nó trên người khác. Họ như những người vụ luật lệ, mù quáng khi thấy Ðức Giêsu bị đánh đập chảy máu, thì diên loan kêu lên: "Ðóng đinh nó vào thập giá!" (x. Ga 19,6). Thật ra, ai hành động một cách vô lý, thì không thể là môn đệ Ðức Giêsu. Ðức tin và lý trí cần thiết và bổ túc cho nhau trong việc kiếm tìm chân lý. Thiên Chúa đã dựng nên con người với một ơn gọi bẩm sinh tin vào chân lý và vì thế Người ban cho nó lý trí. Mọi người đều phải dò xét sự thật và lựa chọn nó khi tìm ra nó, cả khi có phải đương đầu với các hy sinh đi nữa. Ðức Thánh Cha nói thêm về sự thật như sau:
Ngoài ra, sự thật về con người là một giả thiết không thể tránh né được để đạt đến sự tự do, bởi vì trong nó chúng ta khám phá ra các nền tảng của một luân lý đạo đức, mà tất mọi người đều có thể đối chiếu, và nó chứa đựng các công thức rõ ràng, chính xác liên quan tới sự sống và cái chết, các nhiệm vụ và các bổn phận, hôn nhân, gia đình, và xã hội, nói cho cùng liên quan tới phẩm giá bất khả xâm phạm của con người. Gia tài luân lý đạo đức ấy là điều có thể làm xích lai gần nhau mọi nền văn hóa, các dân tộc và các tôn giáo, các chính quyền và các công dân, các công dân với nhau và các người tin nơi Chúa Kitô và những kẻ không tin nơi Người.
Khi nêu cao các gía trị nâng đỡ luân lý đạo đức, Kitô giáo không áp đặt, nhưng đề nghị lời Chúa Kitô mời gọi hiểu biết sự thật, khiến cho con người được tự do. Tín hữu được mời gọi cống hiến kho tàng đó cho các người đồng thời như Chúa đã làm, cả khi có cảm thấy trước sự khước từ và Thập Giá đi nữa.
Ðức Thánh Cha nói thêm trong bài giảng: Anh chị em thân mến, đừng ngần ngại theo Chúa Giêsu Kitô. Nơi Người chúng ta tìm ra sự thật về Thiên Chúa và về con người. Người giúp chúng ta đánh bại các ích kỷ của chúng ta, ra khỏi các tham vọng và chiến thắng điều áp bức chúng ta. Ai làm điều ác, ai phạm tội, thì làm nô lệ của tội lỗi, và sẽ không bao giờ đạt sự tự do (x. Ga 8,34). Chỉ khi khước từ thú hận và con tim chai đứng mù lòa của mình, chúng ta mới tự do, và một cuộc sống mới sẽ nảy mầm trong chúng ta.
Chúa Giêsu là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Nơi Người chúng ta tìm thấy sự tự do tràn đầy và ánh sáng giúp hiểu thực tại một cách sâu xa và biến đổi nó với sức mạnh canh tân của tình yêu thương. Giáo Hội sống để làm cho người khác tham dự vào điều duy nhất Giáo Hội có: đó là Chúa Kitô, niềm hy vọng vinh quang (x. Cl 1,27). Ðể có thể chu toàn nhiệm vụ ấy, Giáo Hôi phải dựa trên sự tự do tôn giáo nòng cốt, bao gồm việc có thể loan báo và cử hành công khai đức tin, chuyển tiếp cho người khác sứ điệp tình yêu hòa giải và hòa bình, mà Chúa Giêsu đem đếm cho thế giới. Ðức Thánh Cha nhận định về tình hình tại Cuba hiên nay như sau:
Cần thừa nhận với niềm vui rằng tại Cuba đã có nhiều bước tiến được làm, để Giáo Hội chu toàn sứ mệnh không thể tránh né được của mình là công khai loan báo đức tin. Tuy nhiên, cần tiếp tục, và tôi muốn khích lệ chính quyền quốc gia củng cố những gì đã đạt được và tiếp tục trên con đường phục vụ thiện ích chung của toàn xã hội Cuba.
Quyền tự do tôn giáo trong chiều kích cá nhân cũng như trong chiều kích cộng đoàn biểu lô sự hiệp nhất của bản vị con người, vừa là công dân vừa là tín hữu. Cũng là điều hợp pháp việc các tín hữu góp phần xây dựng xã hội. Việc củng cố nó khiến cho sự sống chung được vững chãi, dưỡng nuôi hy vọng vào một thế giới tốt lành hơn, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho hòa bình và phát triển hòa hợp, đồng thời thiết lập các nền móng vững chãi bảo dảm các quyền của các thế hệ tương lai.
Rồi Ðức Thánh Cha kết thúc bài giảng như sau:
Khi Giáo Hội nêu bật quyền tự do tôn giáo, Giáo Hội không đòi hỏi đặc ân nào, nhưng chỉ yêu sách trung thành với sứ mệnh, mà Ðấng sáng lập là Chúa Kitô đã giao phó cho mình, vì ý thức rằng nơi đâu có Chúa Kitô hiện diện, thì ở đó con người lớn lên trong nhân bản và tìm thấy sự vững vàng của nó. Chính vì thế Giáo Hội tìm cống hiến chứng tá đó trong việc rao giảng và dậy dỗ trong giáo lý cũng như trong các mội trường đào tạo và đại học. Hy vọng rằng sẽ mau đến lúc Giáo Hội có thể đem các lợi ích sứ mệnh của mình vào trong các lãnh vực khác nhau của sự hiểu biết. Thí dụ điển hình là linh mục Felex Varela, nhà giáo dục, bậc thầy và là người con ưu tú của thành phố La Habana này, mà lịch sử Cuba coi như người đầu tiên đã dậy cho người dân biết suy tư, và đã biến đổi xã hội. Cuba và thế giới cần có các thay đổi, nhưng sẽ chỉ có thay đổi, nếu mỗi người có thể ở trong điều kiện tự hỏi về sự thật, và quyết định bước theo con đường của tình yêu, gieo vãi hòa giải và tình huynh đệ.
Ðức Thánh Cha xin Mẹ Maria Rất Thánh cho mọi người trở thành chứng nhân của lòng bác ái, luôn đáp trả lại sự ác bằng sự thiện.
Trong khi Ðức Thánh Cha cho một số tín hữu rước lễ hàng trăm linh mục, các Phó tế, và hàng ngàn thừa tác viên thánh thể đã phân phát Mình Thánh Chúa cho giáo dân.
Sau khi chào từ biệt các tín hữu Ðức Thánh Cha đã lên xe bọc kính trở về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh để dùng bữa trưa với đoàn tùy tùng và nghỉ ngơi trước khi ra phi trường lấy máy bay về Roma.

Linh Tiến Khải
(Radio Vatican)

Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

Nhiệt thành của thập giá



Nhiệt thành của thập giá
Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.
Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).
“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.
Lễ Lá 2012
 
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Đức Cha Giuse và Cha Đại Diện Micae Lê Xuân Tân thăm “Mái Ấm Hoa Hồng”

Đức Cha Giuse và Cha Đại Diện Micae Lê Xuân Tân thăm “Mái Ấm Hoa Hồng”


Sống tinh thần bác ái Mùa Chay, 7 giờ 00 ngày 26.03.2012 Đức Cha Giuse, Cha Đai Diện Micae và một vài giáo dân giáo xứ Chánh Toà Long Xuyên khởi hành từ Toà Giám Mục Long Xuyên đi thăm “Mái Ấm Hoa Hồng” tại Củ Chi.
“Mái Ấm Hoa Hồng” là trung tâm nuôi dưỡng những người già neo đơn, những người mang những căn bệnh đặc biệt (bại não, down, câm điếc,…) và những em nhỏ bị bỏ rơi do các sơ dòng Đa Minh Lạng Sơn sáng lập khoảng 8 năm trước đây.
Khoảng 12 giờ 30, phái đoàn đến mái ấm, từ ngoài cổng đã được một sơ đón tiếp bởi mái ấm nằm ở một vị trí rất đẹp nhưng lại không có địa chỉ, không bảng hiệu nên rất khó tìm. Bước vào đến sân, toàn thể thành viên: Các Sơ, các em hân hoan chào mừng với một bài hát.
Xen lẫn giây phút hỏi thăm, chia sẻ, các em có những tiết mục văn nghệ do các em thể hiện. Đến với mái ấm, ai cũng thấy được sự ấm áp, hạnh phúc được thể hiện trên khuôn mặt của các sơ và các em nhỏ.
Nhưng rồi cũng phải chia tay, phái đoàn thì về, các em thì đi học, và mỗi người trong mái ấm lại bắt tay vào việc để tạo sự ấm áp và hạnh phúc cho mình và cho người.
 
 
 
 
 

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI hội kiến Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba



Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI hội kiến Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba
WHĐ (28.03-2012) – Theo chương trình chuyến tông du ba ngày tại Cuba, chiều ngày 27-03, sau khi từ Santiago de Cuba đáp phi cơ đến thủ đô La Habana, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI có cuộc hội kiến riêng với ông Raul Castro, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Cuba.
Cuộc hội kiến diễn ra vào lúc 17g30 (giờ địa phương), tại Dinh Cách mạng (Palacio de la Revolución) ở La Habana, thủ đô Cuba, trong vòng 40 phút.
Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết: đây là cuộc hội kiến riêng, đã diễn ra trong vòng thân mật và trên tinh thần xây dựng.

Nhiều hãng thông tấn quốc tế, dẫn lời cha Lombardi, đã đưa tin về một số nội dung đã được ĐTC nêu ra với Chủ tịch Raul Castro: Giáo Hội phải được tự do trong những hoạt động đóng góp cho xã hội, vì lợi ích của dân chúng Cuba; Nhà nước Cuba cần quan tâm xem xét việc công nhận ngày Thứ sáu Tuần Thánh là ngày lễ nghỉ chính thức.
Được biết, trước đây, từ đề nghị của Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II trong chuyến tông du 1998, Nhà nước Cuba đã chấp thuận đưa lễ Giáng sinh vào các ngày lễ nghỉ chính thức của Cuba.
Đánh dấu cuộc gặp gỡ, ông Raul Castro đã trao tặng ĐTC phiên bản tượng Đức Mẹ Bác ái El Cobre bằng gỗ. Đáp lại, ĐTC đã trao tặng vị Chủ tịch HĐNN Cuba bản sao một ấn phẩm cổ được lưu trữ tại Thư viện Vatican. Đó là phiên bản Latinh công trình về Địa lý của Ptolemaeus, trong đó có vị trí địa lý của Cuba trên bản đồ thế giới thời cổ.
 
WHĐ tổng hợp

Ngày thứ hai chuyến tông du Cuba của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI



Ngày thứ hai chuyến tông du Cuba:
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI dâng Cuba cho Đức Mẹ
WHĐ (28.03.2012) – Bước sang ngày thứ hai chuyến tông du Cuba, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI dành buổi sáng ngày 27-03, từ 9g30 (giờ địa phương), đến viếng Vương cung Thánh đường Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Bác ái Cobre (Basílica Santuario Nacional de Nuestra Señora de la Caridad del Cobre) tại Santiago de Cuba (miền Nam Cuba); sau đó, lúc 10g30, ĐTC sẽ đáp phi cơ đi La Habana, thủ đô Cuba, tiếp tục chuyến tông du ba ngày tại Cuba.
Cả đất nước Cuba đã vui mừng được tiếp đón ĐTC. Trong ngày đầu tiên, khi mới đặt chân đến Cuba, 26-03, ĐTC đã theo bước vị tiền nhiệm, Đức Gioan Phaolô II, đưa ra thông điệp về niềm hy vọng. Hy vọng vào vận hội mới đang đến với xã hội Cuba. Hy vọng vào thành quả sống đức Tin của các thành phần dân Chúa, chiếm 60% dân số, sẽ đẩy mạnh sứ mạng làm chứng về Đức Kitô Phục sinh qua niềm tin kiên vững và đời sống bác ái, yêu thương trong tinh thần hòa hợp, nhẫn nại.
Trong bài giảng Thánh lễ ban chiều ngày đầu tiên thăm viếng Cuba, ĐTC đã nhận mình là người tham dự vào cuộc hành hương hằng mấy thế kỷ, đến với Đức Mẹ Bác ái, nài xin Mẹ phù trợ cho dân tộc Cuba đang xây đắp tương lai luôn biết canh tân niềm hy vọng, dù đang chịu nhiều thử thách và khổ đau.
Vương cung Thánh đường - Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Bác ái Cobre
Cuộc hành hương của ĐTC đúng vào dịp Giáo Hội tại Cuba cử hành Năm Thánh kỷ niệm 400 năm (1612–2012) sự kiện tượng Đức Mẹ Bác ái được hai ngư dân Cuba cùng với một thiếu niên nô lệ da đen vớt lên từ biển, khi họ gặp lúc biển động mạnh rất hiểm nghèo, đã tha thiết cầu xin Mẹ giữ gìn được bình an. Đức Mẹ đã nhận lời và cả ba được an toàn. Từ đó, lòng tôn sùng Đức Mẹ Bác ái đã có sức lan tỏa mạnh mẽ, lôi cuốn được nhiều người, qua nhiều thế hệ, trở thành đặc điểm lòng mộ đạo của người Cuba.
Năm 1916, ĐGH Bênêđictô XV đã đặt Đức Mẹ Bác ái Cobre là bổn mạng Cuba. Năm 1927 hoàn thành công trình xây dựng ngôi nhà thờ đặt pho tượng lịch sử trên. Nhà thờ tọa lạc ở El Cobre, gần thành phố Santiago de Cuba. Năm 1977, ĐGH Phaolô VI nâng nhà thờ Đức Mẹ Cobre lên hàng Vương cung Thánh đường. Năm 1998, trong chuyến tông du Cuba, ĐGH Gioan Phaolô II đã đặt mũ triều thiên, tôn kính Mẹ.

ĐTC Bênêđictô XVI viếng Đức Mẹ Bác ái: “Tôi đã nài xin Mẹ thương giúp những người đang chịu đau khổ, những người bị tước đoạt tự do…”
Sáng thứ Ba 27-03, sau khi dâng lễ riêng tại nhà nguyện Đại chủng viện Thánh Basiliô, thuộc Tổng Giáo phận Santiago de Cuba, ĐTC đến Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Bác ái Cobre. Tại đây, ĐTC được Đức cha Dionisio G. Ibáñez, TGM Santiago de Cuba, cùng đông đảo tín hữu hành hương chào đón. 
Ngài quỳ cầu nguyện trước pho tượng lịch sử, dâng đất nước và tương lai người dân Cuba cho Đức Mẹ.
Mở đầu bài huấn từ trước khi ban phép lành cho đoàn hành hương, ĐTC nói với mọi người: “Tôi đến ngôi nhà đặt tượng Đức Mẹ Bác ái, được anh chị em gọi cách trìu mến là la Mambisa, như một người hành hương kính viếng Đức Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ tại El Cobre này chính là quà tặng từ trời cao Thiên Chúa ban cho dân tộc Cuba”.
ĐTC loan báo ngài đã dâng hiện tại và tương lai đất nước Cuba cho Đức Mẹ:
“Anh chị em hãy nói cho mọi người xa gần được biết: tôi đã phó dâng lên Mẹ Thiên Chúa tương lai đất nước của anh chị em. Một đất nước đang tiến bước trên đường đổi mới và hy vọng để mọi người Cuba được hưởng lợi ích lớn lao nhất.
Tôi cũng đã khẩn nài Đức Trinh nữ phù giúp những ai đang trong cảnh ngặt nghèo, những người chịu đau khổ, những người bị tước đoạt tự do, phải xa lìa người thân, những người đang gặp lúc khó khăn rất nặng nề.
Trước Đức Mẹ Caridad (Bác ái), tôi cũng nhớ đến cách riêng dòng dõi con cháu những người đã đến đây từ châu Phi, từ Haiti vốn đang phải chống chọi với hậu quả của trận động đất hai năm về trước.
Tôi không quên cầu nguyện cho biết bao người nông dân và gia đình của họ đang tha thiết ước ao được sống Phúc âm trong mái ấm của mình và muốn dành ngôi nhà của mình để cử hành Thánh Thể như những trung tâm truyền giáo”.
Kết thúc huấn từ, ĐTC căn dặn các thiếu nhi Cuba và nhắn nhủ mọi người:
“Cha khuyên các thiếu nhi của đất nước Cuba thân yêu này, hãy noi gương Đức Trinh nữ rất thánh, hằng luôn cố gắng xây dựng cuộc đời mình trên đá tảng vững chắc là Chúa Giêsu Kitô, làm việc cho công lý, trở nên người phụng sự đức ái và kiên tâm bền chí giữa những thử thách. Chớ gì không một sự gì và không một ai lấy mất niềm vui nội tâm vốn là bản sắc tâm hồn của người Cuba”.
Sau khi viếng Đền thánh Đức Mẹ Bác ái, ĐTC đã lên đường bay lên miền bắc Cuba, tới thủ đô La Habana.
 
WHĐ tổng hợp

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ XXVII

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ XXVII
Ngày Quốc Tế giới trẻ tới đây, Chúa nhật Lễ Lá 1-4-2012, được cử hành ở cấp giáo phận. Hôm 27-3-2012, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày này.
”Anh chị em hãy luôn vui mừng trong Chúa!” (Pl 4,4)

Các bạn trẻ thân mến,
Tôi vui mừng vì lại được ngỏ lời với các bạn, nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ XXVII. Kỷ niệm về cuộc gặp gỡ tại Madrid, hồi tháng 8 năm ngoái, vẫn còn ghi đậm trong tâm hồn tôi. Đó là một thời điểm ân phúc đặc biệt, trong đó Chúa đã chúc lành cho các bạn trẻ hiện diện, đến từ các nơi trên toàn thế giới. Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì bao nhiêu thành quả mà Ngài đã làm nảy sinh trong những ngày ấy, và trong tương lai những thành quả ấy sẽ tăng thêm nhiều cho các bạn trẻ và các cộng đoàn của họ. Hiện nay chúng ta đã hướng về cuộc hẹn sắp tới tại Rio de Janeiro vào năm 2013, với chủ đề ”Các con hãy ra đi và làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ” (Xc Mt 28,19).

Năm nay, chủ đề Ngày Quốc Tế giới trẻ rút từ lời nhắn nhủ trong Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu thành Philiphê: ”Anh chị em hãy luôn vui mừng trong Chúa!”. Thực vậy, niềm vui là một yếu tố chủ yếu trong kinh nghiệm Kitô giáo. Trong mỗi Ngày Quốc Tế giới trẻ chúng ta đều cảm nghiệm niềm vui nồng nhiệt, niềm vui hiệp thông, niềm vui được làm Kitô hữu, niềm vui đức tin. Đó là một trong những đặc tính của các cuộc gặp gỡ ấy. Và chúng ta thấy sức mạnh thu hút lớn lao của niềm vui: trong một thế giới thường mang đậm buồn sầu và lo lắng, niềm vui thực là một chứng tá quan trọng về vẻ đẹp và sự đáng tín nhiệm của đức tin Kitô.

Giáo Hội được mời gọi mang niềm vui cho thế giới, niềm vui chân thực và lâu bền, niềm vui mà các thiên thần đã loan báo cho các mục tử tại Bethlehem trong đêm Chúa Giêsu giáng sinh (Xc Lc 2,10): Thiên Chúa không những nói, nhưng còn thực hiện những dấu hiệu lạ kỳ trong lịch sử nhân loại, Thiên Chúa gần gũi chúng ta đến độ trở thành một người trong chúng ta và trải qua những giai đoạn trong trọn cuộc đời con người. Trong bối cảnh khó khăn hiện nay, bao nhiêu người trẻ quanh chúng ta đang có một nhu cầu rất lớn, họ cần được nghe sứ điệp Kitô, là một sứ điệp vui mừng và hy vọng! Vì thế, tôi muốn cùng các bạn suy tư về niềm vui ấy, về những phương thức tìm được niềm vui, để các bạn ngày càng có thể sống niềm vui ấy một cách sâu xa hơn và trở thành những sứ giả của niềm vui nơi những người xung quanh các bạn.

    Tâm hồn chúng ta được dựng nên để sống vui mừng

Khát vọng vui mừng được ghi đậm trong tâm hồn con người. Đi xa hơn những thỏa mãn trước mắt và chóng qua, con tim chúng ta tìm kiếm niềm vui sâu xa, sung mãn và lâu bền, có thể mang lại ”hương vị” cho cuộc sống. Và điều này có giá trị đặc biệt đối với các bạn, vì tuổi trẻ là một thời kỳ liên tục khám phá cuộc sống, thế giới, tha nhân và bản thân. Tuổi trẻ là thời kỳ cởi mở hướng về tương lai, trong đó có biểu lộ những ước muốn to lớn được hạnh phúc, tình bạn, chia sẻ và chân thực, trong đó ta được những lý tưởng thúc đẩy và đề ra các dự phóng.

Và mỗi ngày có bao nhiêu niềm vui đơn sơ mà Chúa ban cho chúng ta: niềm vui sống, niềm vui đứng trước cảnh đẹp thiên nhiên, niềm vui vì công việc được hoàn thành tốt đẹp, niềm vui phục vụ, niềm vui vì tình yêu chân thành và thanh khiết. Và nếu chúng ta chú ý tự quan sát, thì cũng có bao nhiêu lý do khác để vui mừng: những lúc thật đẹp trong đời sống gia đình, tình bạn được chia sẻ, khám phá những khả năng của mình và đạt được những thành quả tốt, sự quí chuộng của người khác đối với chúng ta, khả năng diễn đạt và cảm thấy được cảm thông, cảm giác mình hữu ích cho tha nhân. Và rồi, việc thủ đắc các kiến thức mới nhờ học hành, khám phá những chiều kích mới qua các cuộc du hành và gặp gỡ, khả năng đề ra những dự phóng cho tương lai. Và cả kinh nghiệm khi đọc một tác phẩm văn chương, chiêm ngưỡng một kiệt tác nghệ thuật, nghe và chơi nhạc hoặc xem một phim cũng có thể tạo ra nơi chúng ta những niềm vui đích thực.

Nhưng mỗi ngày chúng ta cũng gặp phải bao nhiêu khó khăn và trong lòng có những âu lo về tương lai, đến độ chúng ta có thể tự hỏi không biết niềm vui trọn vẹn và lâu bền mà chúng ta mong ước có phải là một ảo tưởng và là một sự trốn chạy thực tại hay không. Có nhiều bạn trẻ tự hỏi: phải chăng niềm vui trọn vẹn có phải là điều thực sự có thể đạt được ngày nay hay không? Và sự tìm kiến ấy diễn ra qua nhiều con đường khác nhau, có những con đường sai lầm và có thể là nguy hiểm nữa. Nhưng làm sao phân biệt niềm vui thực sự lâu bền với những lạc thú trước mắt và lừa đảo? Làm sao tìm được niềm vui chân thực trong cuộc sống, niềm vui kéo dài và không rời bỏ chúng ta trong những lúc khó khăn?

2. Thiên Chúa là nguồn mạch niềm vui chân thực
Trong thực tế, những niềm vui đích thực, những niềm vui bé nhỏ hằng ngày hoặc những niềm vui lớn trong cuộc sống, tất cả đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, cả khi thoạt nhìn chúng không có vẻ như vậy, vì Thiên Chúa là sự hiệp thông yêu thương vĩnh cửu, là niềm vui vô tận không khép kín nơi chính mình, nhưng lan tỏa nơi những người Ngài yêu thương và họ yêu mến Ngài. Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài vì yêu thương và để đổ tràn tình yêu của Ngài trên chúng ta, để làm cho chúng ta được tràn đầy sự hiện diện và ân sủng của Ngài. Thiên Chúa muốn cho chúng ta được tham dự niềm vui thần linh và vĩnh cửu của Ngài, cho chúng ta khám phá rằng giá trị và ý nghĩa sâu xa của cuộc đời chúng ta hệ tại được Chúa chấp nhận, đón tiếp và yêu thương, không phải bằng sự đón tiếp mong manh như sự đón tiếp của con người, nhưng là một sự đón tiếp vô điều kiện như sự đón tiếp của Thiên Chúa: tôi được Chúa mong muốn, tôi có một chỗ đứng trong thế giới và trong lịch sử, tôi được Thiên Chúa đích thân yêu thương. Và nếu Thiên Chúa nhận tôi, yêu thương tôi và tôi chắc chắn về điều ấy, thì tôi biết chắc chắn và rõ ràng rằng tôi hiện hữu, tôi sống, đó là một điều tốt lành.

Tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta được biểu lộ trọn vẹn trong Đức Giêsu Kitô. Nơi Ngài có niềm vui mà chúng ta tìm kiếm. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy các biến cố đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Chúa Giêsu đều mang đặc tính vui mừng. Khi báo tin cho Đức Trinh Nữ Maria Người sẽ là Mẹ Đấng Cứu Thế, Tổng lãnh thiên thần Gabriel bắt đầu bằng câu: ”Xin Trinh Nữ hãy vui lên!” (Lc 1,28). Khi Chúa Giêsu sinh ra, thiên thần Chúa nói với các mục tử: ”Này đây tôi loan báo cho anh em một vui mừng lớn, sẽ là niềm vui của toàn dân: hôm nay, tại thành của Vua Đavít, một vị Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta, Ngài là Chúa Kitô” (Lc 2,11). Và các Đạo Sĩ tìm kiếm hài nhi, ”khi thấy ngôi sao, họ cảm thấy một niềm vui rất lớn” (Mt 2,10). Vì vậy, động lực của niềm vui này là sự gần gũi của Thiên Chúa, Đấng trở nên một người trong chúng ta. Và đó là điều mà thánh Phaolô muốn nói khi viết cho các tín hữu Kitô ở thành Philiphê: ”Anh chị em hãy luôn vui mừng trong Chúa, tôi lập lại: anh chị em hãy vui mừng. Ước gì sự hòa nhã của anh chị em được mọi người biết đến. Chúa đang gần kề!” (Pl 4,4-5). Nguyên nhân đầu tiên của niềm vui chúng ta chính là sự gần gũi của Chúa, Đấng đón nhận và yêu mến ta.

Và thực vậy từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu luôn nảy sinh một niềm vui lớn trong tâm hồn. Trong các sách Tin Mừng, chúng ta có thể thấy điều đó trong nhiều giai thoại. Chúng ta hãy nhớ cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu tại nhà ông Giakêu, một người thu thuế bất lương, một người tội lỗi công khai, Chúa Giêsu nói với ông: ”Hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông”. Và thánh Luca kể lại, ông Giakêu ”tràn đầy vui mừng đón tiếp Chúa” (Lc 19,5-6). Đó là niềm vui của cuộc gặp gỡ với Chúa; là cảm thấy tình thương của Thiên Chúa có thể biến đổi toàn thể cuộc sống và mang lại ơn cứu độ. Và Giakêu quyết định thay đổi cuộc sống, phân phát một nửa gia tài của ông cho người nghèo.

Trong giờ khổ nạn của Chúa Giêsu, tình yêu ấy được biểu lộ với tất cả sức mạnh. Trong những giờ phút cuối của cuộc sống trần thế, khi dùng bữa tiệc ly với các bạn hữu, Chúa nói: ”Như Cha đã yêu thương Thầy, Thầy cũng yêu thương các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy... Thầy nói điều đó với các con để niềm vui của Thầy ở trong các con và niềm vui của các con được trọn vẹn” (Ga 15,9.11). Chúa Giêsu muốn dẫn đưa các môn để của Ngài và mỗi người chúng ta vào trong niềm vui trọn vẹn, niềm vui mà Ngài chia sẻ với Chúa Cha, để tình yêu của Chúa Cha đối với Ngài ở trong chúng ta (Xc Ga 17,26). Niềm vui Kitô là cởi mở đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và thuộc về Ngài.

Các sách Tin Mừng kể lại rằng Maria Magdala và các phụ nữ khác đến viếng mộ nơi Chúa Giêsu được an táng sau khi chết và họ được một thiên thần loan báo một tin lạ thường: Chúa đã sống lại. Thánh sử Phúc Âm kể lại: Bấy giờ các bà vội vã rời mộ, ”vừa sợ hãi vừa rất vui mừng”, họ chạy đi loan báo tin vui cho các môn đệ. Và Chúa Giêsu đến gặp họ, Ngài nói: ”Chào các bà!” (Mt 28,8-9). Đó là niềm vui ơn cứu độ được trao tặng cho họ: Chúa Kitô đang sống, Ngài là Đấng đã chiến thắng sự ác, tội lỗi và sự chết. Ngài hiện diện giữa chúng ta như Đấng Phục Sinh, cho đến tận thế (Xc Mt 28,20). Sự ác không có tiếng nói cuối cùng về cuộc sống chúng ta, nhưng niềm tin nơi Chúa Kitô Cứu Thế nói với chúng ta rằng tình thương của Thiên Chúa chiến thắng.

Niềm vui sâu xa ấy là thành quả của Chúa Thánh Linh, Đấng làm cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, có khả năng sống và niếm hưởng sự tốt lành của Chúa, và chúng ta có thể thưa với Ngài ”Abbà, Cha ơi” (Xc Rm 8,15). Niềm vui là dấu chỉ sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi chúng ta.

3. Bảo tồn niềm vui Kitô trong tâm hồn
Đến đây chúng ta tự hỏi: làm sao lãnh nhận và bảo tồn hồng ân niềm vui sâu xa, niềm vui tinh thần?
Một thánh vịnh nói với chúng ta rằng: ”Hãy tìm niềm vui trong Chúa: Ngài sẽ lắng nghe những ước vọng của tâm hồn bạn” (Tv 37,4). Và Chúa Giêsu giải thích rằng ”Nước trời giống như một kho tàng giấu trong ruộng: một người kia tìm được và giấu đi; rồi tràn đầy vui mừng, ông bán mọi tài sản và mua thửa ruộng ấy” (Mt 13,44). Tìm thấy và bảo tồn niềm vui tinh thần nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với Chúa, đòi phải theo Ngài, thực hiện một sự chọn lựa quyết định đặt trọn nơi Ngài. Các bạn trẻ thân mến, các bạn đừng sợ dành trọn cuộc sống của mình khi dành chỗ cho Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài; đó là con đường để được an bình và hạnh phúc đích thực trong nội tâm sâu thẳm của chúng ta, là con đường để thực hiện chân thực cuộc sống của chúng ta như con cái Thiên Chúa, được dựng nên theo hình ảnh giống Ngài.

Tìm kiếm niềm vui trong Chúa: niềm vui là thành quả của đức tin, là mỗi ngày nhìn nhận sự hiện diện của Chúa, tình bạn của Ngài: ”Chúa ở gần kề!” (Pl 4,5); là đặt trọn niềm tín thác của chúng ta nơi Chúa, là tăng trưởng trong sự hiểu biết và yêu mến Chúa. ”Năm đức tin”, sắp bắt đầu trong vài tháng tới đây, sẽ nâng đỡ và khích lệ chúng ta. Các bạn thân mến, hãy học cách nhìn xem Thiên Chúa hành động thế nào trong cuộc sống chúng ta, các bạn hãy khám phá Chúa ẩn nấp giữa những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của các bạn. Hãy tin rằng Chúa luôn trung tín với giao ước Ngài đã ký kết với các bạn trong ngày các bạn chịu phép Rửa Tội. Hãy biết rằng Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi các bạn. Hãy năng hướng nhìn lên Chúa. Trên thập giá, Chúa đã hiến mạng sống vì yêu thương các bạn. Sự chiêm ngắm một tình yêu lớn lao dường ấy mang lại cho tâm hồn chúng ta một niềm hy vọng và niềm vui mà không gì có thể phá đổ. Một Kitô hữu không bao giờ có thể buồn phiền và đã gặp gỡ Chúa Kitô, Đấng đã hiến mạng sống vì họ.

Tìm kiếm Chúa, gặp gỡ Chúa trong cuộc sống, cũng có nghĩa là đón nhận Lời Chúa, là niềm vui cho tâm hồn. Ngôn sứ Giêrêmia viết: ”Khi Lời Chúa đến gặp con, con ăn ngấu nghiến Lời Chúa; Lời Chúa là niềm vui và hoan lạc của tâm hồn con” (Gr 15,16). Các bạn hãy học cách đọc và suy niệm Kinh Thánh, các bạn sẽ tìm thấy trong đó câu trả lời cho mọi thắc mắc sâu xa nhất về sự thật ở trong tâm trí các bạn. Lời Chúa giúp khám phá những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử loài người, và thúc đẩy chúng ta chúc tụng và thờ lạy Chúa, lòng tràn đầy vui mừng: ”Các bạn hãy đến, chúng ta hát mừng Chúa.. Các bạn hãy phủ phục, chúng ta thờ lạy Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta” (Tv 95,1.6).

Tiếp đến, Phụng vụ là nơi tuyệt hảo trong đó có diễn tả niềm vui mà Giáo Hội kín múc từ Chúa và chuyển thông cho thế giới. Mỗi chúa nhật, trong Thánh Lễ, các cộng đoàn Kitô cử hành Mầu Nhiệm chủ yếu của ơn cứu độ: sự chết và sống lại của Chúa Kitô. Đó chính là lúc căn bản đối với hành hành trình của mỗi môn đệ Chúa, trong đó Hy Tế tình thương của Chúa hiện diện; đó là ngày chúng ta gặp gỡ Chúa Phục Sinh, lắng nghe Lời Ngài, nuôi dưỡng chúng ta bằng Mình và Máu Ngài. Một thánh vịnh quả quyết: ”Đây là ngày Chúa đã dựng nên, chúng ta hãy vui mừng và hân hoan!” (Tv 118,24). Và trong đêm Phục Sinh, Giáo Hội hát bài ca Exultet (Mừng vui lên), diễn tả niềm vui vì chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô trên tội lỗi và sự chết: ”Mừng vui lên hỡi ca đoàn thiên thần... Hãy vui lên trái đất được tràn đầy huy hoàng lớn lao dường ấy... và đền thờ này vang dội những lời tung hô của dân chúng trong đại lễ vui mừng!”. Niềm vui Kitô nảy sinh từ sự ý thức mình được một vị Thiên Chúa làm người yêu thương, đã hiến mạng vì chúng ta và đã đánh bại sự ác và sự chết; và niềm vui ấy là sống bằng tình yêu đối với Chúa. Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, nữ đan sĩ trẻ dòng Cát Minh, đã viết: ”Lạy Chúa Giêsu, yêu mến Chúa thực là niềm vui của con!” (P. 45, 21-1-1897, Op. Compl., tr. 708).

4. Niềm vui yêu thương
Các bạn thân mến, niềm vui gắn liền với tình yêu: đó là hai thành quả không thể tách rời của Chúa Thánh Linh (Xc Gl 5,23). Tình yêu tạo ra vui mừng, và vui mừng là một hình thức yêu thương. Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta, khi vọng lại lời Chúa Giêsu ”cho đi thì hạnh phúc hơn là nhận lãnh!” (Cv 20,35), đã nói: ”Niềm vui là một mạng lưới tình yêu để bắt các linh hồn. Thiên Chúa yêu thương người cho đi một cách vui vẻ. Ai vui vẻ cho đi thì cho nhiều hơn”. Và vị Tôi Tớ Chúa Phaolô VI đã viết: ”Trong chính Thiên Chúa tất cả đều là vui mừng vì tất cả đều là hồng ân” (Tông Huán Gaudete in Domino (Hãy vui mừng trong Chúa), 9-5-1975).

Khi nghĩ đến những lãnh vực khác nhau trong cuộc sống của các bạn, tôi muốn nói với các bạn rằng yêu thương có nghĩa là kiên trì, trung tín, chu toàn những gì đã cam kết. Và điều này trước tiên ở trong tình bạn: các bạn hữu chúng ta mong muốn chúng ta thành thực, giữ lời hứa, trung thành, vì tình yêu chân thực là kiên trì cả khi và nhất là trong những khó khăn. Điều này cũng có giá trị đối với công việc làm, học hành và việc phục vụ mà chúng ta thi hành. Trung thành và kiên trì trong điều thiện dẫn tới niềm vui, cho dù niềm vui ấy không luôn luôn là điều xảy ra ngay.

Để đi vào niềm vui của tình yêu, chúng ta cũng được mời gọi quảng đại, không phải chỉ cho đi điều tối thiểu, nhưng là dấn thân hết mình trong cuộc sống, đặc biệt quan tâm đến những người túng thiếu hơn. Thế giới đang cần những người nam nữ có khả năng và quảng đại, phục vụ công ích. Các bạn hãy dấn thân học hành nghiêm túc; hãy vun trồng những năng khiếu của các bạn và ngay từ bây giờ sử dụng chúng để phục vụ tha nhân. Hãy tìm phương thế để góp phần làm cho xã hội được công bằng và nhân đạo hơn, nơi các bạn sinh sống. Ước gì toàn thể cuộc sống của các bạn được tinh thần phục vụ hướng dẫn, chứ không phải do sự tìm kiếm quyền lực, thành công vật chất và tiền bạc.

Về lòng quảng đại, tôi không thể không nhắc đến niềm vui đặc biệt: đó là niềm vui ta cảm thấy khi đáp lại ơn gọi hiến dâng trọn cuộc sống của ta cho Chúa. Các bạn trẻ thân mến, các bạn đừng sợ ơn Chúa gọi sống đời tu trì, đan tu, thừa sai hoặc linh mục. Hãy chắc chắn rằng Chúa đổ đầy vui mừng cho những người dâng hiến cuộc sống cho Ngài trong viễn tượng ấy, và đáp lại lời mời của Chúa từ bỏ mọi sự để ở với Ngài, và dâng hiến cho Ngài con tim không chia sẻ để phục vụ tha nhân. Cũng vậy, Chúa dành niềm vui lớn cho những người nam nữ hoàn toàn hiến thân cho nhau trong hôn nhân để thành lập gia đình và trở thành dấu chỉ tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội của Ngài.
Tôi muốn nhắc đến yếu tố thứ ba để bước vào niềm vui của tình yêu, đó là làm cho tình hiệp thông huynh đệ được tăng trưởng trong cuộc sống của các bạn và của các cộng đoàn các bạn. Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa hiệp thông và vui mừng. Không phải tình cờ mà Thánh Phaolô viết lời nhắn nhủ ở số nhiều: Ngài không ngỏ lời với mỗi người riêng rẽ, nhưng quả quyết ”Anh chị em hãy luôn vui mừng trong Chúa” (Pl 4,4). Chỉ khi nào cùng nhau sống sự hiệp thông huynh đệ, chúng ta mới có thể cảm nghiệm niềm vui ấy. Sách Tông đồ Công vụ mô tả cộng đoàn Kitô đầu tiên thế này: ”Khi bẻ bánh trong các tư gia, họ dùng bữa với niềm vui và tâm hồn đơn sơ” (Cv 2,46). Cả các bạn cũng hãy dấn thân để các cộng đoàn Kitô có thể là nơi ưu tiên để chia sẻ, quan tâm và săn sóc lẫn nhau.

5. Niềm vui hoán cải
Các bạn than mến, để sống niềm vui đích thực cũng cần phải nhận rõ những cám dỗ làm mất niềm vui. Nền văn hóa ngày nay thường tìm kiếm những mục tiêu, những thành công và lạc thú trước mắt, ưu đãi sự bất nhất hơn là sự bền chí trong những cơ cực vất vả và trung thành với những điều cam kết. Những sứ điệp các bạn nhận được thường thúc đẩy đi theo tiêu chuẩn tiêu thụ, hướng đến những hạnh phúc giả tạo. Kinh nghiệm cho thấy rằng sở hữu của cải không đồng nghĩa với vui mừng; có bao nhiêu người đầy ứ của cải vật chất, nhưng thường bị thất vọng, sầu muộn và cảm thấy cuộc sống trống rỗng. Để ở lại trong niềm vui, chúng ta được mời gọi sống trong tình thương và trong chân lý, sống trong Thiên Chúa.
Và ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta được hạnh phúc. Vì thế Ngài đã ban cho chúng ta những chỉ dẫn cụ thể để chúng ta tiến bước, đó là các Giới răn. Khi tuân giữ các Giới răn, chúng ta tìm thấy con đường sự sống và hạnh phúc. Tuy rằng thoạt nhìn các Giới răn có vẻ là một mớ những điều cấm đoán, như thể là một chướng ngại cản trở tự do, nhưng nếu chúng ta suy niệm các Giới răn kỹ lưỡng hơn, dưới ánh sáng Sứ điệp của Chúa Kitô, thì chúng là một toàn bộ những qui luật sống thiết yếu và quí giá, dẫn đến một cuộc sống hạnh phúc, được thực hiện theo dự phóng của Thiên Chúa. Trái lại bao nhiêu lần chúng ta nhận thấy rằng công trình xây dựng không biết tới Chúa và ý của Ngài thì dẫn tới thất vọng, buồn sầu, cảm thấy bị chiến bại. Kinh nghiệm về tội lỗi như một sự từ khước theo Chúa, như một sự xúc phạm đến tình bạn của Chúa, tạo ra bóng tối trong tâm hồn chúng ta.

Nếu đôi khi hành trình Kitô gặp khó khăn và quyết tâm trung thành với tình yêu của Chúa gặp phải những chướng ngại hoặc sa ngã, thì Thiên Chúa, theo lượng từ bi của Ngài, không bỏ rơi chúng ta, trái lại Ngài tặng cho chúng ta cơ hội trở về với Ngài, hòa giải với Ngài, cảm nghiệm niềm vui của tình yêu tha thứ và tái đón nhận của Ngài.

Các bạn trẻ thân mến, các bạn hãy năng lãnh nhận bí tích Thống Hối và Hòa giải! Đây là bí tích về niềm vui được tìm lại. Các bạn hãy cầu xin Chúa Thánh Linh ban ánh sáng để biết nhận ra tội lỗi của mình và khả năng xin Chúa tha thứ qua việc kiên trì đến với Bí tích này với lòng thanh thản và tín thác. Chúa luôn mở rộng vòng tay đón nhận các bạn, thanh tẩy và đưa các bạn vào trong niềm vui của Ngài: ”trên trời sẽ được vui mừng dù chỉ có một tội nhân hoán cải (Xc Lc 15,7).

6. Niềm vui trong thử thách
Nhưng sau cùng, trong tâm hồn chúng ta có thể còn một thắc mắc: phải chăng ta có thể sống trong vui mừng ngay giữa những thử thách của cuộc đời, nhất là những thử thách đau thương và huyền nhiệm, phải chăng việc thực sự theo Chúa, tín thác nơi Chúa, luôn mang lại hạnh phúc?

Chúng ta có thể tìm được câu trả lời từ kinh nghiệm của một số người trẻ như các bạn, họ đã tìm thấy trong Chúa Kitô ánh sáng có khả năng mang lại sức mạnh và hy vọng, kể cả trong những tình cảnh khó khăn nhất. Chân phước Pier Giorgio Frassati (1901-1925) đã trải qua bao nhiêu thử thách trong cuộc sống ngắn ngủi, trong đó có thử thách về đời sống tình cảm, gây thương tổn sâu đậm cho anh. Chính trong tình thế ấy, anh viết cho chị: ”Chị hỏi em có vui không; và làm sao em không thể vui mừng? Bao lâu Đức Tin con mang lại cho em sức mạnh thì em luôn vui tươi! Mỗi tín hữu Công Giáo không thể không vui mừng.. Mục đích mà chúng ta được tạo thành chỉ cho chúng ta con đường tuy có nhiều gai góc, nhưng không phải là một con đường sầu muộn: con đường ấy là vui tươi cả trong những đau khổ” (Thư gửi chị Luciana, Torino, 14-2-1925). Và chân phước Gioan Phaolô II, khi trình bày chân phước Frassati như mẫu gương, đã nói về anh rằng: ”Frassati là một thanh niên có một niềm vui thu hút, một niềm vui vượt lên trên bao nhiêu khó khăn trong cuộc sống” (Diễn văn cho giới trẻ, Torino, 13-4-1980).

Gần chúng ta hơn là cô Chiara Badano (1971-1990) mới được phong chân phước. Cô đã cảm nghiệm rằng đau khổ có thể được biến đổi nhờ tình yêu và hàm chứa niềm vui một cách huyền nhiệm. Năm lên 18 tuổi, trong lúc bị bệnh ung thư làm cho cô bị đau đớn dữ dội, Chiara đã cầu nguyện với Chúa Thánh Linh, chuyển cầu cho các bạn trẻ thuộc Phong trào của cô. Ngoài việc xin lành bệnh, Chiara còn xin Thiên Chúa dùng Thánh Linh soi sáng cho tất cả các bạn trẻ ấy, ban ơn khôn ngoan và ánh sáng cho họ: ”Đó thực là một giờ phút của Thiên Chúa: con chịu đau khổ về thể xác, nhưng tâm hồn con ca hát” (Thư gửi Chị Chiare Lubich, Sassello, 20-12-1989). Bí quyết an bình và vui tươi của Chiara Badano là hoàn toàn tín thác nơi Chúa và đón nhận cả bệnh tật như một sự biểu lộ huyền nhiệm Ý Chúa để mưu ích cho cô và tất cả mọi người. Cô thường lập lại: ”Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa muốn, thì con cũng muốn như vậy”.
Đó là hai chứng tá đơn sơ giữa bao nhiêu chứng tá khác cho thấy tín hữu Kitô chân chính không bao giờ tuyệt vọng và buồn rầu, cả khi đứng trước những thử thách cam go nhất, và chứng tá ấy cũng cho thấy rằng niềm vui Kitô không phải là một sự trốn chạy thực tại, nhưng là một sức mạnh siêu nhiên để đương đầu và sống những khó khăn thường nhật. Chúng ta biết rằng Chúa Kitô chịu đóng đanh và sống lại đang ở với chúng ta, là người bạn luôn trung tín. Khi chúng ta tham phần vào những đau khổ của Ngài, chúng ta cũng tham dự vinh quang của Ngài. Với Ngài và trong Ngài, đau khổ được biến đổi thành tình yêu. Và tại nơi đó có vui mừng (Xc Cl 1,24).

7. Chứng nhân niềm vui
Các bạn thân mến, để kết thúc, tôi muốn nhắn nhủ các bạn hãy trở thành các thừa sai của niềm vui. Ta không thể hạnh phúc nếu những người khác không được hạnh phúc: vì thế, niềm vui phải được chia sẻ. Các bạn hãy ra đi kể lại cho các bạn trẻ khác về niềm vui của các bạn vì đã tìm được kho tàng quí giá là chính Chúa Kitô. Chúng ta không thể giữ riêng cho mình niềm vui đức tin: để niềm vui ấy có thể ở lại trong chúng ta, chúng ta phải thông truyền đi. Thánh Gioan quả quyết: ”Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi cũng loan báo cho anh em, để anh em cũng hiệp thông với chúng tôi.. Chúng tôi viết những điều này cho anh em, để niềm vui của chúng ta được trọn vẹn” (1 Ga 1,3-4).

Đôi khi người ta mô tả Kitô giáo như một chương trình sống đè nén tự do của chúng ta, đi ngược với ước muốn hạnh phúc và vui mừng của chúng ta. Nhưng điều này không tương ứng với sự thật! Các tín hữu Kitô là những người nam nữ thực sự hạnh phúc vi họ biết mình không bao giờ lẻ loi, nhưng luôn luôn được bàn tay Thiên Chúa nâng đỡ! Hỡi các môn đệ trẻ của Chúa Kitô, các bạn có nhiệm vụ chứng tỏ cho thế giới thấy rằng đức tin mang lại hạnh phúc và một niềm vui chân thực, trọn vẹn và lâu bền. Và nếu lối sống của các tín hữu Kitô nhiều khi có vẻ mệt mỏi và buồn chán, các bạn hãy là những người đầu tiên chứng tỏ khuôn mặt vui tươi và hạnh phúc của đức tin. Phúc Âm là “tin vui” theo đó Thiên Chúa yêu thương chúng ta và mỗi người chúng ta đều là quan trọng đối với Ngài. Các bạn hãy chứng tỏ cho thế giới thấy sự thật là như thế!

Vì vậy, các bạn hãy trở thành những thừa sai hăng hái trong công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng! Hãy mang đến cho những người đau khổ, những người đang tìm kiếm, niềm vui mà Chúa Giêsu muốn cho họ. Hãy mang niềm vui ấy đến trong gia đình, trường học và đại học, trong những nơi làm việc, các nhóm bạn hữu của các bạn, nơi các bạn sinh sống. Các bạn sẽ thấy niềm vui ấy lan sang người khác. Và các bạn sẽ nhận được gấp trăm: niềm vui của ơn cứu độ cho chính các bạn, niềm vui được thấy Lòng Từ Bi Chúa tác động nơi các tâm hồn. Ngày mà các bạn gặp gỡ chung kết với Chúa, Ngài sẽ nói với các bạn: ”Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy dự phần vào niềm vui của chủ bạn!” (Mt 25,21).

Xin Đức Trinh Nữ Maria tháp tùng các bạn trên con đường đó. Mẹ đã đón nhận Chúa vào lòng và đã loan báo điều ấy qua bài ca chúc tụng và vui mừng, Magnificat: ”Linh hồn tôi tung hô Chúa và thần trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1,46-47). Mẹ Maria đã hoàn toàn đáp lại tình thương của Thiên Chúa qua việc tận hiến đời Mẹ cho Chúa trong việc phục vụ khiêm tốn và trọn vẹn. Mẹ được gọi là ”Nguyên nhân niềm vui của chúng ta” vì Mẹ đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu. Xin Mẹ dẫn đưa các bạn vào niềm vui ấy, niềm vui mà không ai có thể tước đoạt khỏi các bạn!
Vatican ngày 15 tháng 3 năm 2012
Biển Đức XVI, Giáo Hoàng


G. Trần Đức Anh OP chuyển ý