label

Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

Sinh hoa lợi (1.3.2013 – Thứ sáu Tuần 2 Mùa Chay)



Sinh hoa lợi
Lời Chúa: Mt 21, 33-43.45-46
Khi ấy Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ lão trong dân rằng: “Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: ‘Chúng sẽ nể con ta’. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: ‘Ðứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!’ Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” Họ đáp: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” Ðức Giêsu bảo họ: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao:
‘Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta’
Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.” Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ đám đông, vì đám đông cho Người là một ngôn sứ.
Suy nim:
Trong Mùa Chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền.
Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,
để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.
Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.
Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.
Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi
các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).
Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).
Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.
Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.
Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.
Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy,
người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình
bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.
Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ
là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Ítraen trong dòng lịch sử.
Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.
Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.
Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,
không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Ítraen, mà còn của cả nhân loại.
“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).
Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22
để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).
Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,
còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Thu hoa lợi”, “nộp hoa lợi”, “sinh hoa lợi” (cc. 34, 41, 43).
Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.
Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,
bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.
Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.
Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do thái nữa,
nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).
Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,
trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do thái tin Đức Giêsu.
Chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về đoàn dân mới.
Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,
và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.
Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?
Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.

Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa :
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.

Vì quá khứ thì đã qua,
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.

Xin cho con thấy Chúa
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.

Con xin hiến dâng Chúa giây phút này
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.

Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vinh cửu của Chúa. Amen.
 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Con thuyền Giáo Hội là của Chúa. Người luôn điều khiển và không để nó chìm.

Con thuyền Giáo Hội là của Chúa
Người luôn điều khiển và không để nó chìm


Vatican (Vat. 27-02-2013) - Con thuyền Giáo Hội không phải của tôi, không phải của chúng ta, nhưng là của Chúa, và Người không để cho nó chìm. Chính Chúa điều khiển nó, chắc chắn cả qua các người mà Người đã chọn, bởi vì Người đã muốn như thế. Thiên Chúa hướng dẫn giáo Hội, Người luôn đỡ nâng Giáo Hội nhất là trong những lúc khó khăn. Người luôn ở gần chúng ta, Người không bỏ rơi chúng ta, Người ở gần chúng ta và bao bọc chúng ta với tình yêu của Người. Chúng ta đừng bao giờ mất đi quan niệm đức tin này, là quan niệm duy nhất đích thật của con đường của Giáo Hội và của thế giới.
Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI đã nói như trên với 170,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung cuối cùng của ngài tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 27 tháng 2 năm 2013. Thật thế, buổi tiếp kiến sáng 27 tháng 2 năm 2013 đã là buổi gặp gỡ cuối cùng với Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI trong triều đại của ngài, vì vào lúc 20 giờ tối thứ năm 28 tháng 2 năm 2013 giờ Roma, Ðức Thánh Cha kết thúc nhiệm vụ giáo hoàng. Tông Tòa sẽ trống ngôi, và trong vài ngày nữa, có thể là thứ hai mùng 4 tháng 3 năm 2013 Ðức Hồng Y Nhiếp Chính sẽ chủ sự buổi họp của Hồng Y Ðoàn để quyết định ngày khai mạc Mật Nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng mới.
Ðáng lý ra trong mùa này buổi tiếp kiến sáng thứ tư diễn ra trong đại thính đường Phaolô VI, nhưng để nhiều tín hữu có thể tham dự buổi gặp gỡ vị Cha chung lần cuối cùng, buổi tiếp kiến đã được tổ chức tại quảng trường thánh Phêrô. Trời Roma trong xanh có nắng ấm rất đẹp, như thể mùa xuân đã bắt đầu. Ngay từ 5 giờ sáng, hàng trăm xe buýt chở các đoàn hành hương từ các giáo phận Italia hay từ các nước khác đã đổ tìn hữu xuống quanh quảng trường thánh Phêrô, để mọi người xếp hàng đi qua các trạm kiểm soát diện tử vào quảng trường. Phủ giáo hoàng đã phân phát 50,000 vé, nhưng số tín hữu tham dự đã lên tới 170,000, đặc biệt có rất đông sinh viên học sinh và các bạn trẻ. Các Ðại học giáo hoàng Roma đều cho sinh viên nghỉ để có thể tham dự buổi tiếp kiến của Ðức Thánh Cha, và cùng với tín hữu khắp nơi bầy tỏ lòng yêu mến, tình liên đới, sự gắn bó gần gũi và biết ơn ngài, vì những gì Ðức Thánh Cha đã cống hiến cho Giáo Hội và cho toàn thế giới trong các năm qua.
Nhiều đoàn tín hữu mặc áo mầu đồng phục hay có mũ, khăn và cờ để dễ nhận ra nhau. Các đoàn tín hữu đã mang theo rất nhiều cờ, cờ Tòa Thánh cũng như cờ quốc gia, và nhiều biểu ngữ viết tên thành phố của họ và các câu như: "Cám ơn Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI", "Ngài luôn luôn là Phêrô và giới trẻ chúng con yêu mến ngài", "Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con yêu mến ngài", "Chúng con gần gũi ngài", "Luôn luôn với Ðức Giáo Hoàng", "Can ơn Ðức Thánh Cha nhiều lắm" vv...
Sau khi bắt đầu triều đại giáo hoàng của mình Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI đã có buổi tiếp kiến chung lần đầu tiên ngày 27 tháng 4 năm 2005. Trong gần 8 năm làm Giáo Hoàng ngài đã có 348 buổi tiếp kiến chung với 5,116,600 tín hữu tham dự. Số tín hữu tham dự đông nhất là vào năm 2006 với 45 buổi tiếp kiến và 1,031,500 người. Trong năm đầu đã có 32 buổi tiếp kiến với 810,000 người tham dự. Các năm khác đã có từ 42 tới tới 45 buổi tiếp kiến với con số tham dự xê xích từ 447,000 tới 729,000 người.
Riêng cho buổi tiếp kiến lịch sử sáng thứ tư 27 tháng 2 năm 2013, ban kỹ thuật Tòa Thánh đã dựng thêm 4 màn truyền hình khổng lồ khác để cho các tín hữu đứng ở đường Hòa Giải cũng có thể theo dõi. Hiên diện trong buổi tiếp kiến cuồi cùng sáng 27 tháng 2 năm 2013 ngoài khoảng 70 Hồng Y, hàng chục Tổng Giám Mục, Giám Mục, các Ðức Ông thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh, hàng ngàn Linh Mục tu sĩ nam nữ các dòng tu và các trường quốc tế, ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, còn có Ðại quận công thừa kế Guillaume nước Luxembourg, tổng thống Slovac Ivan Gasparovic và phái đoàn, ông Horst Seehofer, thống đốc bang Bavière Nam Ðức và phái đoàn, ông Renato Balduzzi Bộ trưởng Y tế Italia, ông Jorge Fernandez Diaz, Bộ trưởng Nội vụ Tây Ban Nha, chị Maria Voce, lãnh đạo phong trào Tổ Ấm, Anh Kiko Argello, lãnh đạo phong trào Con đường tna dự tòng, thầy Alois Ðan viên trưởng Ðan viện đại kết Taizé vv...
Ðã có hàng chục đoàn hành hương giáo phận Italia do chính các Tổng Giám Mục và Giám Mục hướng dẫn. Trong các phái đoàn hiện diện củng có một nhóm tín hữu Việt Nam từ Ðức.
Trong buổi tiếp kiến hôm thứ tư 27 tháng 2 năm 2013 đã không có nghi thức hôn tay Ðức Giáo Hoàng như thường lệ. Nhưng sau đó tại phòng Clemente một số nhân vật quan trọng có thể đến chào Ðức Thánh Cha và hôn tay ngài.
Trong suốt mấy tiếng đồng hồ chờ đợi Ðức Thánh Cha, các sinh viên học sinh và bạn trẻ đã liên tục gọi tên Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI, hát xướng và vỗ tay, trong bầu khí của lễ hội, giống như trong các Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Lúc 10 giờ các Ðức Ông thuộc Phủ Quốc Vụ Khánh Tòa Thánh đã chào tín hữu và giới thiệu các nhóm tham dự. Khi nghe xướng tên nhóm mình, tín hữu, đặc biệt là các bạn trẻ, đã hô to lên.
Lúc 10 giờ 40 xe díp trắng chở Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI xuất hiện từ phía trái Ðền Thờ Thánh Phêrô giữa tiếng vỗ tay của tín hữu, những tràng pháo tay xem ra e dè hơn và đượm một nỗi buồn nào đó. Xe chở Ðức Thánh Cha đi một vòng giữa các lối đi ở quảng trường để ngài chào tín hữu, trước khi lên khán đài chính giữa thềm đền thờ thánh Phêrô.
Sau khi Ðức Thánh Cha làm dấu thánh giá khai mạc buổi tiếp kiến, các Ðức Ông thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã đọc bài Sách Thánh trích từ chương 1 thư thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôxê, bằng nhiều thứ tiếng khác nhau.
Mở đầu bài huấn đụ Ðức Thánh Cha cám ơn tín hữu đã đến đông đảo như vậy để tham dự buổi tiếp kiến cuối cùng trong triều đại giáo hoàng của ngài. Ðức Thánh Cha nói: "Như tông đồ Phaolô trong văn bản kinh thánh chúng ta vừa nghe, tôi cũng cảm thấy trong tim tôi nhất là phải cám ơn Thiên chúa, là Ðấng dẫn dắt và làm cho Giáo Hội lớn lên, là Ðấng gieo vãi Lời Người và như thế đưỡng nuôi đức tin Dân Người. Trong lúc này đây tâm hồn tôi nới rộng ra để ôm trong vòng tay toàn thể Giáo Hội rải rác trên thế giới; và tôi cảm tạ Thiên Chúa vì các "tin tức", mà trong các năm này của sứ vụ Phêrô tôi đã có thể nhận được liên quan tới niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, và về tình bác ái luân lưu trong Thân Mình của Giáo Hội và khiến cho nó sống trong tình yêu và niềm hy vọng, rộng mở chúng ta và hướng chúng ta tới cuộc sống tràn đầy, tới quê hương trên Trời. Tôi cảm thấy mình mang tất cả mọi người trong lời cầu nguyện, trong một hiện tại là hiện tại của Thiên Chúa, nơi tôi tiếp nhận mọi cuộc gặp gỡ, mọi chuyến du hành và mọi cuộc viếng thăm mục vụ. Tất cả và mọi người tôi đều đón nhận trong lời cầu nguyện để tín thác cho Chúa: để chúng ta am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết tinh thần, và để chúng ta có thể có cung cách hành xử xứng đáng với Người, với tình yêu thương của Người, bằng cách mang lại hoa trái trong mọi việc lành (Cl 1,9-10).
Tiếp tục bài huấn dụ Ðức Thánh Cha nói: Trong lúc này đây, trong tôi có một sự tin tưởng lớn lao, bởi vi tôi biết chúng ta tất cả đều biết rằng Lời chân lý của Tin Nừng là sức mạnh của Giáo Hội, là sự sống của Giáo Hội. Tin Mừng thanh tẩy và canh tân, đem lại hoa trái, bất cứ nơi đâu cộng đoàn tín hữu biết lắng nghe và tiếp nhận ơn thánh Chúa trong chân lý và sống trong tình bác ái. Ðó là sự tin tưởng của tôi, đó là niềm vui của tôi. Ngày 19 tháng Tư cách đây gần 8 năm, khi tôi đã chấp thuận lãnh nhận sứ vụ Phêrô, tôi đã có sự chắc chắn này và nó đã luôn đồng hành với tôi. Trong lúc này đây, cũng như tôi đã nói lên nhiều lần, các lời đã vang lên trong tim tôi: Lậy Chúa, Chúa xin con điều gì? Ðây là một gánh nặng lớn mà Chúa đặt lên vai con, nhưng nếu Chúa xin con, thì dựa trên lời Chúa con sẽ thả lưới, chắc chắn rằng Chúa sẽ hướng dẫn con. Và Chúa đã thực sự hướng dẫn tôi, gần gũi tôi, tôi đã có thể nhận thấy hằng ngày sự hiện diện của Người." Nhìn lại gần 8 năm triều đại giáo hoàng của người Ðức Thánh Cha nói: "Ðó đã là một đoạn đường của Giáo Hội, có những lúc vui, có ánh sáng, nhưng cũng có những lúc không dễ dàng. Tôi đã cảm thấy như thánh Phêrô với các Tông Ðồ trong con thuyền trên hồ Galilea: Chúa đã cho chúng ta biết bao nhiêu ngày có mặt trời và gió mát hiu hiu, những ngày trong đó đã đánh được đầy cá; nhưng cũng có những lúc trong đó nước động và gió ngược, như trong suốt lịch sử của Giáo Hội và xem ra Chúa ngủ. Nhưng tôi đã luôn luôn biết rằng trong con thuyền ấy có Chúa và tôi đã luôn luôn biết rằng con thuyền Giáo Hội không phải của tôi, không phải của chúng ta, nhưng là của Chúa, và Người không để cho nó chìm; chính Chúa điều khiển nó, chắc chắn qua cả các người mà Người đã chọn, bởi vì Người đã muốn như thế. Ðây đã và hiện là một sự chắc chắn, mà không gì có thể làm lu mờ. Và chính vì thế mà hôm nay tim tôi tràn đầy sự cảm tạ Thiên Chúa, bởi vì Người đã không bao giờ để cho Giáo Hội, và cho cả tôi nữa, phải thiếu sự ủi an, ánh sáng và tình yêu của Người."
Ðề cập tới Năm Ðức Tin đang tiến hành Ðức Thánh Cha nói: "Chúng ta đang ở trong Năm Ðức Tin mà tôi đã muốn để củng cố đức tin của chúng ta nơi Thiên Chúa, trong một bối cảnh xem ra ngày càng đặt để lòng tin vào hàng thứ yếu. Tôi muốn mời gọi từng người cảm thấy được yêu thương bởi Thiên Chúa, là Ðấng đã ban Con Người cho chúng ta và đã cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Người. Tôi muốn từng người cảm thấy niềm vui được là kitô hữu. Có một lời cầu đẹp cần đọc mỗi sáng nói rằng: "Lậy Thiên Chúa của con, con thờ lậy Chúa, và con yêu mến Chúa với tất cả trái tim con. Con cảm tạ Chúa đã tạo dựng nên con, đã cho con là tín hữu kitô...". Vâng, chúng ta hài lòng vì ơn đức tin; đó là thiện ích lớn lao nhất, mà không ai có thể lấy mất! Chúng ta cảm tạ Chúa về ơn đó mỗi ngày, với lời cầu nguyện và với một cuộc sống kitô trung thực. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nhưng cũng chờ đợi chúng ta yêu thương Người!"
Tiếp đến Ðức Thánh Cha đã cám ơn các cộng sự viên và mọi thành phần dân Chúa và nói: "Nhưng trong lúc này tôi không chỉ muốn cảm tạ Thiên Chúa mà thôi. Một Giáo Hoàng không một mình hướng dẫn con thuyền của Phêrô, cả khi trách nhiệm đầu tiên là của người; và tôi đã không bao giờ cảm thấy cộ đơn trong việc mang niềm vui và gánh nặng của sứ vụ Phêrô. Chúa đã đặt bên canh tôi biết bao nhiêu người đã giúp đỡ và gần gũi tôi, với sự quảng đại và tình yêu thương đối với Thiên Chúa và Giáo Hội. Trước hết là anh em, các Hồng Y thân mến: sự khôn ngoan, các lời khuyên và tình bạn của anh em đã rất qúy báu đối với tôi; các cộng sự viện của tôi, bắt đầu là Quốc Vụ Khanh và tất cả các cơ quan trung ương Tòa Thánh, cũng như tất cả những người phục vụ Tòa Thánh trong các lãnh vực khác nhau,: có biết bao khuôm nặt không nổi bật, ở trong bóng tối, nhưng chính trong thinh lặng, trong sự tận tụy hằng ngày, với tinh thấn đức tin và lòng khiêm tốn, đã là một sự nâng đỡ chăc chắn và đáng tin cậy. Một tư tưởng đặc biệt tôi xin gửi tới Giáo Hội Roma, giáo phận của tôi. Tôi không thể quên các anh em trong Hội Ðồng Giám Mục và Linh Mục, các người sống đời thánh hiến và toàn thể Dân Chúa: trong các chuyến viếng thăm mục vụ, trong các cuộc gặp gỡ, các buổi tiếp kiến, các chuyyến công du, tôi đã luôn luôn trực giác được sự chú ý lớn lao và lòng trìu mến sâu xa. Tôi cũng đã yêu thương tất cả và từng người một, mà không phân biệt, với tình bác ái mục tử là con tim của mọi Chủ Chăn, nhất là của Giám Mục Roma, của Người Kế Vị Tông Ðồ Phêrô. Mỗi ngày tôi đã mang từng người trong anh chị em trong lời cầu nguyện của tôi, với con tim của một người cha."
Ðức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: "Tôi muốn rằng lời chào và cảm ơn của tôi tới được với tất cả mọi người: trái tim của một Giáo Hoàng mở rộng ra cho toàn thế giới. Và tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi với Ngoại Giao Ðoàn cạnh Tòa Thánh, khiến cho đại gia đình của các quốc gia hiện diện. Ở đây tôi cũng nghĩ tới tất cả những ai làm việc cho một sự truyền thông tốt đẹp và tôi xin cám ơn công việc phục vụ của họ. Tới đây tôi muốn thật sự hết lòng cám ơn tất cả mọi người trên thế giới trong các tuần qua đã gửi tới tôi các dấu chỉ cảm động của sự chú ý, tình bạn và lời cầu nguyện. Phải, Giáo Hoàng không bao giờ cô đơn, giờ này tôi còn cảm nghiệm được điều đó một lần nữa đánh động con tim một cách lớn lao như vậy. Giáo Hoàng thuộc về tất cả mọi người, và biết bao nhiêu người cảm thấy họ gần gũi ngài. Có đúng thật là tôi đã nhận được rất nhiều thư của các nhân vật quan trọng trên thế giới - từ các quốc trưởng các nước, từ các vị lãnh đạo tôn giáo, từ các đại diện của thế giới văn hóa vv... Nhưng tôi cũng nhận được rất nhiều thư của những người đơn sơ viết cho tôi một cách dơn sơ từ trái tim của họ, và khiến cho tôi cảm thấy lòng thương mến của họ, nảy sinh từ việc cùng nhau ở với Chúa Giêsu Kitô, trong Giáo Hội. Các người này không viết cho tôi, ví dụ như viết cho một ông hoàng hay cho một người lớn mà họ không quen biết. Họ viết cho tôi như các anh chị em hay như con cái, với ý thức về một mối dây gia đình rất yêu mến. Ở đây người ta có thể sờ mó được bằng tay Giáo Hội là gì - không phải là một tổ chức, một hiệp hội, có các mục đích tôn giáo hay nhân đạo, nhưng là một thân thể sống động, một sự hiệp thông giữa các anh chị em với nhau trong Thân Mình của Chúa Giêsu Kitô, là Ðấng hiệp nhất tất cả chúng ta. Sống kinh nghiệm Giáo Hội trong kiểu này, và hầu như có thể sờ mó được bằng tay sức mạnh chân lý và tình yêu của nó, là lý do vui sướng, trong một thời đại, trong đó biết bao nhiêu người đang nói về sự suy tàn của Giáo Hội."
Ðề cập tới quyết định từ nhiệm của ngài Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI giải thích như sau: "Trong các tháng cuối cùng này, tôi đã cảm thấy sức lực của tôi giảm sút, và trong lời cầu nguyện tôi đã nài nỉ Thiên Chúa, soi dẫn cho tôi với một ánh sáng của Người để làm cho tôi lấy một quyết định đúng đắn hơn, không phải cho thiện ích của tôi, nhưng cho thiện ích của Giáo Hội. Tôi đã đi bước này trong ý thức tràn đầy về sự nghiêm trọng và cũng mới mẻ của nó, nhưng với một sự thanh thản sâu xa trong tâm hồn. Yêu thương Giáo Hội cũng có nghĩa là can đảm có những lựa chọn khó khăn, đau khổ, nhưng luôn luôn có trước mắt thiện ích của Giáo Hội, chứ không phải của chính mình.
Ở đây xin cho phép tôi trở lại ngày 19 tháng 4 năm 2005 một lần nữa. Sự nghiêm trọng của quyết định cũng đã là ở nơi sự kiện từ lúc đó trở đi tôi đã được luôn luôn và vĩnh viễn dấn thân bởi Chúa. Luôn luôn - ai lãnh sứ vụ Phêrô thì không còn có sự tư riêng nào nữa. Người ấy luôn luôn và hoàn toàn thuộc về tất cả mọi người, thuộc về toàn thể Giáo Hội. Như thể nói rằng chiều kích riêng tư bị lấy mất khỏi cuộc sống người ấy. Tôi đã kinh nghiệm và tôi đang trải nghiệm điều đó giờ đây, rằng một người nhận lấy cuộc sống chính khi cho nó đi. Trước đây tôi đã nói rằng nhiều người yêu mến Chúa thì cũng yêu mến Người Kề Vị Thánh Phêrô và cũng trở thành trìu mến đối với ngài; rằng Giáo Hoàng thật sự có các anh chị em, con cái nam nữ trên toàn thế giới, và rằng ngài cảm thấy an toàn trong vòng tay sự hiệp thông của họ; bởi vì ngài không thuộc về chính mình nữa, nhưng thuộc về tất cả mọi người và tất cả mọi người thuộc về ngài."
Ðức Thánh Cha giải thích thêm ý nghĩa sự kiện "luôn luôn" như sau: "Sự "luôn luôn" cũng là một sự "vĩnh viễn" - không còn có việc trở lại sự riêng tư nữa. Quyết định của tôi từ bỏ việc tích cực thi hành sứ vụ không thu hồi điều này. Tôi không trở lại đời sống tư, một đời sống gồm các cuộc du hành, các cuộc gặp gỡ, tiếp kiến, diễn thuyết vv... Tôi không từ bỏ thập giá, nhưng tôi ở lại trong một cach thức mới mẻ gần Chúa bị đóng đanh. Tôi không mang quyền bính của nhiệm vụ cai quản Giáo Hội nữa, nhưng như để nói rằng trong việc phục vụ cầu nguyện tôi ở bên trong ranh giới của thánh Phêrô. Thánh Biển Ðức, mà tôi mang tên như Giáo Hoàng, sẽ là gương sáng vĩ đại cho tôi trong điều này. Người đã chỉ cho chúng ta thấy con đường cho một đời sống, mà tích cực hay thụ động, hoàn toàn tùy thuộc vào công trình của Thiên Chúa.
Tôi xin cám ơn tất cả và từng người một, cả về sự tôn trọng và cảm thông mà với chúng anh chị em đã tiếp nhận quyết định quan trọng này. Tôi sẽ tiếp tục đồng hành với con đường của Giáo Hội bằng lời cầu nguyện và suy tư, với sự tận tụy đối với Chúa và Hiền Thê của Người, mà tôi đã tìm cách sống cho tới giờ này mỗi ngày, và tôi muốn sống nó luôn mãi. Tôi xin anh chị em nhớ tới tôi trước mặt Thiên Chúa, và nhất là cầu nguyện cho các Hồng Y, được mời gọi cho một nhiệm vụ lớn lao như vậy, và cho Người Kế Vị mới của Tông Ðồ Phêrô: xin Chúa đồng hành cùng ngài với ánh sáng và sức mạnh của Thần Khí Người.
Chúng ta hãy khẩn nài sự bầu cử hiền mẫu của Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, để Mẹ đồng hành với từng người trong chúng ta và toàn thể cộng đoàn giáo hội; Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ với lòng tin tưởng sâu xa. Các bạn thân mến! Thiên Chúa hướng dẫn giáo Hội, Người luôn đỡ nâng Giáo Hội, cả và nhất là trong những lúc khó khăn. Chúng ta đừng bao giờ mất đi quan niệm đức tin này, là quan niệm duy nhất đích thật của con đường của Giáo Hội và của thế giới. Ước chi trong con tim chúng ta, trong con tim của từng người trong chúng ta, luôn có sự chắc chắn tươi vui rằng Chúa ở gần chúng ta, Người không bỏ rơi chúng ta, Người ở gần chúng ta và bao bọc chúng ta với tình yêu của Người. Xin cám ơn anh chị em!" Bài huấn dụ của Ðức Thánh Cha đã bị cắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay của tín hữu.
Khi Ðức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ, các Hồng Y và mọi người đã đứng lên vỗ tay rất lâu. Ðức Thánh Cha cũng đứng lên đáp lễ. Tiếp đến Ðức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Phàp, Anh, Ðức, Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha, A rập, Ba Lan, Croat, Tchèques, Slovac, Rumani và tiếng Ý.
Chào các tín hữu Italia Ðức Thánh Cha nói: "Các bạn thân mến, tôi xin cám ơn sự tham dự đông đảo của các bạn trong buổi gặp gỡ này, cũng như lòng thương mến của các bạn và niềm vui của đức tin. Ðó là các tâm tình mà tôi xin hết lòng đổi lại bằng cách bảo đảm với các bạn lời cầu nguyện của tôi cho các bạn hiện diện nơi đây, cũng như cho thân bằng quyến thuộc và những người thân thiết của các bạn.
Ngỏ lời với người trẻ Ðức Thánh Cha xin Chúa đổ tràn đầy tình yêu của Người trong tim họ để họ sẵn sàng hăng hái theo Chúa. Ðức Thánh Cha xin Chúa nâng đỡ các người đau yếu để họ chấp nhận gánh nặng của khổ đau với sự thanh thản. Và ngài xin Chúa hướng dẫn các cặp vợ chồng mới cưới biết làm cho gia đình họ lớn lên trong sự thánh thiện.
Sau cùng Ðức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Vào Lúc 11 giờ sáng thứ năm 28 tháng 2 năm 2013 Ðức Thánh Cha sẽ gặp các Hồng Y hiện diện tại Roma trong phòng Clemente để chào từ biệt các vị. Vào lúc 5 giờ chiều ngài lấy trực thăng đi Castel Gandolfo. Vào lúc 5 giờ rưỡi chiều ngài ra bao lơn dinh nghỉ mát Castel Gandolfo đễ chào tín hữu thành phố. Ðây cũng là lần xuất hiện cuối cùng trong tư cách là Giáo Hoàng Roma. Vì từ lúc 8 giờ tối sau đó ngài không còn giữ chức Chủ Chăn Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ nữa. Tuy vẫn tiếp tục được gọi là Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI, hay Ðức Nguyên Giáo Hoàng Biển Ðức XVI, hay Ðức Nguyên Giáo Hoàng, nhưng Ðức Ratzinger sẽ chỉ mặc áo chùng trắng, không có mảnh áo khoác ngắn trên vai, không có nhẫn Giáo Hoàng, vì nhẫn này sẽ bị phá hủy, và cũng không mang giầy mầu đỏ. Cũng từ lúc 8 giờ tối thứ năm 28 tháng 2 năm 2013 đội cận vệ Thụy Sĩ tại Castel Gandolfo chấm dứt nhiệm vụ và giao quyền lại cho đội Hiến Binh Vaticăng. Ðức Ratzinger sẽ cư ngụ tại Castel Gandolfo vài tháng trước khi về sống trong tu viện của các nữ tu dòng kín được tu sửa lại, tại nội thành Vaticăng trong thinh lặng và cầu nguyện. Cùng hiệp ý với tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu nguyện cho Ðức Biển Ðức XVI, cho Giáo Hội, và cho Hồng Y Ðoàn sắp nhóm Mật Nghị. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng để các vị bầu vị Tân Giáo Hoàng theo ý Chúa muốn.

Linh Tiến Khải
(Radio Vatican)

Thứ Tư, 27 tháng 2, 2013

Thư mời tham dự Nghi thức bế mạc điều tra về đời sống, nhân đức và sự thánh thiện của Tôi tớ Chúa Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận




HỘI ĐỒNG TÒA THÁNH
VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH
12 tháng Hai 2013
Thưa quý linh mục, quý nữ tu và các bạn,
Thay mặt Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình, là Thỉnh nguyện viên và Cáo thỉnh viên cho việc phong chân phước và hiển thánh của Tôi tớ Chúa Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tôi hân hạnh kính mời quý vị tham dự Nghi thức long trọng bế mạc giai đoạn điều tra cấp giáo phận về đời sống, nhân đức và sự thánh thiện của Tôi tớ Chúa Hồng y Nguyễn Văn Thuận.
Nghi thức sẽ được cử hành vào lúc 11g30 ngày thứ Sáu, 5 tháng Bảy 2013 tại Phòng Hòa Giải, Văn phòng Tòa Giám quản Roma – Điện Latêranô. Đức hồng y Agostino Vallini Giám quản giáo phận Roma, sẽ chủ tọa Nghi thức long trọng này. Trước đó, sẽ có một Thánh lễ trọng thể vào lúc 9g30 tại Vương cung thánh đường Thánh Antôn Pađua (124 Via Merulana, Roma).
Để cho việc tổ chức được chu đáo, xin vui lòng xác nhận sự tham dự của quý vị và gửi về cho Dr. Luisa Melo bằng email: causa.cardinalvanthuan@justpeace.va hoặc bằng fax: +39 06 698 87 205. Ngay khi được hồi âm, chúng tôi sẽ gửi cho quý vị chương trình Thánh lễ, Nghi thức và chương trình ban chiều.
Trong khi chờ đợi hồi âm tham dự của quý vị, tôi xin chúc quý vị mọi sự tốt lành và ân sủng.
Thân ái trong Chúa,
Hồng y Peter K. A. Turkson
Chủ tịch
 
Hồng y Peter K. A. Turkson

Sau khi từ nhiệm, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vẫn giữ nguyên tước hiệu và tu phục trắng



Sau khi từ nhiệm, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vẫn giữ nguyên tước hiệu và tu phục trắng
WHĐ (27.02.2013) – Chiều 26-02, cha Federico Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, đã thông báo với báo chí: Sau khi từ nhiệm, danh xưng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI sẽ là “Nguyên Giáo hoàng”; ngài vẫn giữ tước hiệu “Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI” và tu phục trắng, nhưng không mang khăn choàng vai bên ngoài tu phục.
Về buổi tiếp kiến chung lần cuối cùng, đã phát hành 50.000 vé vào quảng trường Thánh Phêrô nhưng số người tham dự chắc chắn sẽ nhiều hơn số lượng vé.
Diễn tiến buổi tiếp kiến sẽ như thường lệ, ngọai trừ việc Đức Thánh Cha sẽ di chuyển bằng xe chuyên dụng với lộ trình mở rộng hơn và không có phần ngỏ lời riêng với từng nhóm. Thay vào đó, ĐTC chào các quan chức Nhà nước hiện có mặt tại Rôma, như Tổng thống Slovaquia, hoặc Thủ hiến xứ Bavaria (Đức).
Chương trình ngày 28-02 sẽ diễn ra như thông báo trước đây (WHĐ đã loan tin).
Cha Lombardi cũng cho biết, sau khi từ nhiệm, ĐTC sẽ không đeo nhẫn ngư phủ (nhẫn giáo hoàng) và không dùng triện ấn ký mang tên ngài. Ngoài ra ngài cũng sẽ không còn mang đôi giày giáo hoàng màu đỏ nữa.
(Theo VIS, 26-02-2013)
 
Thành Thi

Nội dung Tông thư tự sắc ”Normas nonnullas”




Nội dung Tông thư tự sắc ”Normas nonnullas” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về vài thay đổi điều luật liên quan tới việc bầu Giáo Hoàng

Ngày 25-2-2013 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã cho công bố Tông thư tự sắc ”Normas nonnullas - Các điều luật là không” về vài thay đổi liên quan tới các điều luật bầu Giáo Hoàng. Tông thư mang chữ ký ngày 22 tháng 2 năm 2013.

Mở đầu Tông thư Đức Thánh Cha viết: ”Với Tông thư ”De aliquabus mutationibus in normis de electione Romani Pontificis - Về vài thay đổi trong luật bầu Giáo Hoàng Roma” được ban bố như Tự sắc tại Roma ngày 11 tháng 6 năm 2007 trong năm thứ ba triều đại giáo hoàng của tôi, tôi đã thiết định vài điều luật, mà trong khi hủy bỏ các luật đã viết ở số 75 của Tông Hiến ”Universi Dominici gregis - Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa”, do vị tiền nhiệm của tôi là Chân phước Gioan Phaolô II ban hành ngày 22 tháng 2 năm 1996, chúng đã tái lập điều luật do truyền thống phê chuẩn, theo đó để việc bầu Giáo Hoàng Roma có hiệu lực phải luôn luôn có đa số hai phần ba phiếu của các Hồng Y cử tri hiện diện.

Vì tầm quan trọng của việc bảo đảm cho diễn tiến của những gì liên hệ, dù với tầm mức khác nhau, cho việc bầu Đức Giáo Hoàng Roma, đặc biệt cho một sự giải thích nào đó và việc thực thi một vài định liệu, tôi thiết lập và quy định rằng vài điều luật của Tông Hiến Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa, và những gì chính tôi đã đặt định trong Tông thư nói trên, được thay thế bởi các điều luật sau đây:

Số 35. ”Không một Hồng Y cử tri nào sẽ bị loại trừ khỏi việc bầu cử tích cực hay thụ động, vì bất cứ lý do hay viện cớ nào, giữ nguyên những gì đã được đưa ra trong số 40 cho tới số 75 của Tông hiến”.

Số 37. ”Ngoài ra tôi cũng ra lệnh rằng, từ khi Tông Tòa trống vị một cách hợp pháp, thì đợi 15 ngày trọn trước khi bắt đầu Mật Nghị; tuy nhiên tôi để cho Hồng Y Đoàn quyền bắt đầu Mật Nghị trước, nếu nhận thấy có sự hiện diện của tất cả càc Hồng Y cử tri, cũng như quyền kéo dài ra vài ngày việc bầu cử, nếu có các lý do nghiêm trọng. Tuy nhiên lâu nhất là 20 ngày, bắt đầu từ khi Trống Tòa, tất cả các Hồng Y cử tri hiện diện phải tiến hành việc bầu cử”.

Số 43. ”Từ lúc đã sắp đặt việc bắt đầu các hoạt động của cuộc bầu cử, cho tới khi công báo biến cố bầu Giáo Hoàng, hay cho tới khi Đức Tân Giáo Hoàng sẽ ra lệnh, các nơi của nhà trọ thánh Marta, cũng như và một cách đặc biệt nhà nguyện Sistina, và các nơi được chỉ định cho các buổi cử hành phụng vụ, phải bị đóng, dưới quyền của Đức Hồng Y Nhiếp chính và với sự cộng tác của vị Phó nhiếp chính và Phụ tá Quốc Vụ Khanh, đối với những người không được phép, theo những gì thiết định trong các số sau đây.

Toàn lãnh thổ Thành Phố Vaticăng và cả sinh hoạt bình thường của các Văn phòng có trụ sở ở trong nội thành phải được điều hợp trong thời gian này, làm sao để bảo đảm sự kín đáo và tiến hành tự do các công việc gắn liền với việc bầu Giáo Hoàng. Cách đặc biệt phải dự liệu, cả với sự trợ giủp của các Đức Ông giúp lễ, để các Hồng Y cử tri không bị tới gần bởi bất cứ ai trong lộ trình đi từ nhà trọ thánh Marta cho tới Dinh Tông Tòa Vaticăng.”

Số 46, triệt 1. ”Để đáp ứng các nhu cầu cá nhân và văn phòng liên hệ tới diễn tiến của việc bầu cử, vị Thư ký Hồng Y Đoàn, cũng giữ chức Thư ký của Cộng đoàn bầu cử, vị Trưởng ban nghi lễ giáo hoàng với tám chuyên viên nghi lễ, và hai nam tu sĩ đặc trách phòng thánh giáo hoàng, một giáo sĩ do Đức Hồng Y niên trưởng hay vị Hồng Y đại diện lựa chọn để trợ giúp trong nhiệm vụ, phải sẵn sàng và vì thế được cư ngụ một cách xứng hợp trong những nơi thích đáng trong các giới hạn nói tới trong số 43 của Tông Hiến”.

Số 47. ”Tất cả những người được liệt kê trong các số từ 46 tới 55, triệt 2 của Tông Hiến, mà vì bất cứ lý do nào và trong bất cứ lúc nào, biết được từ bất cứ ai một cách trực tiếp hay giám tiếp liên quan tới các giấy tờ của việc bầu cử, và một cách đặc biệt, những gì liên quan tới các lần bỏ phiếu trong chính cuộc bầu, đều bị bó buộc phải giữ bí mật với bất cứ người nào xa lạ với các Hồng Y cử tri: vì mục đích đó, trước khi có các công việc của cuộc bầu cử, họ phải thề theo các cách thế và công thức chỉ trong số sau đây.”

”Tôi (nói tên) hứa và thề tuyệt đối giữ bí mật với bất cứ ai không phải là thành phần của Hồng Y đoàn cử tri, và điều đó một cách vĩnh viễn, trừ khi nhận được quyền đặc biệt được ban một cách rõ ràng bởi Đức Tân Giáo Hoàng được bầu hay các Người Kế Vị, về tất cả những gì trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới các cuộc bỏ phiếu và các cuộc kiểm phiếu bầu Giáo Hoàng.

Tôi cũng hứa và thề không sử dụng bất cứ dụng cụ thu tiếng hay nghe hoặc thu hình những gì trong thời gian bầu cử, diễn ra trong môi trường của Thành Phố Vaticăng, và một cách đặc biệt những gì trực tiếp hay gián tiếp bằng bất cứ cách nào có dính líu tới các công việc liên quan tới chính việc bầu cử.

Tôi tuyên bố đưa ra lời thề này, ý thức rằng một việc vi phạm sẽ bao gồm hình phạt vạ tuyệt thông ”tức khắc” mà Tòa Thánh dành cho tôi. Như thế xin Thiên Chúa giúp tôi và các Phúc Âm mà tôi sờ tới với bàn tay này.”

Số 49. ”Sau khi đã cử hành theo các nghi thức được viết trước các lễ an táng vị Giáo Hoàng qua đời, đã chuẩn bị những gì cần thiết cho diễn tiến theo luật của việc bầu cử, vào ngày đã định, chiếu theo những gì nói tới trong số 37 của Tông Hiến, để bắt đầu Mật Nghị, tất cả các Hồng Y quy tụ trong Đền thờ thánh Phêrô trong nội thành Vaticăng, hay ở nơi nào khác theo sự thích hợp và các nhu cầu của thời gian và không gian để tham dự vào một buổi cử hành Thánh Thể trọng thể với Thánh lễ cầu cho việc bầu giáo hoàng. Điều này sẽ phải được thi hành vào một giờ thích hợp vào ban sáng, như thế để ban chiều có thể diễn ra những gì đã được quy định trong các số tiếp theo của Tông Hiến.”

Số 50. ”Từ nhà nguyện Paolina của Dinh Tông Tòa, nơi tụ họp vào một giờ thích hợp vào sau ban trưa, các Hồng Y cử tri mặc phẩm phục sẽ cùng nhau rước kiệu trọng thể tới nhà nguyện Sistina của Dinh Tông Tòa, nơi diễn ra cuộc bầu cứ, vừa đi vừa hát Kinh Veni Creator, khẩn nài sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

Sẽ tham dự cuộc rước kiệu vị Phó Nhiếp chính, Tổng hiệu thính viên của Phòng tông tòa, và hai thành viên của mỗi Đoàn Công chứng tông tòa số các tham sự viên, đoàn các Đức Ông hiệu thính viên của Tòa thượng thẩm Rota Roma, và đoàn các Đức Ông giúp lễ.”

Số 51, triệt 2. ”Vì thế Hồng Y Đoàn, hoạt động dưới quyền và trách nhiệm của vị Nhiếp chính, được trợ giúp bởi Bộ đặc biệt được số 7 của Tông hiến nói tới, sẽ lo lắng để tất cả đều được sắp đặt trước, cả từ bên ngoài với sự trợ giúp vị Phó Nhiếp chính và vị Phụ tá Quốc Vụ khanh, làm sao để bảo vệ việc bầu cử bình thường và sự kín đáo của nó.”

Sồ 55 triệt 3. ”Nếu xảy ra bất cứ việc vi phạm nào chống lại điều luật này, thì các thủ phạm phải biết rằng họ bị vạ tuyệt thông tức khắc do Tòa Thánh dành cho họ.”

Số 62. ”Bị hủy bỏ các kiểu bầu gọi là biểu quyết hay gợi hứng và giàm xếp. Từ nay trở đi hình thức bầu Giáo Hoàng Roma sẽ chỉ duy nhất là bầu bằng phiếu kín.

Vì thế tôi thiết định rằng để cuộc bầu Đức Giáo Hoàng Roma có giá trị phải có ít nhất hai phần ba số phiếu, do các cử tri hiện diện bỏ phiếu”.

Số 64. ”Thể thức kiểm phiếu diễn tiến theo ba giai đoạn. Giai đoạn đầu có thể gọi là tiền kiểm phiếu, bao gồm: 1) thứ nhất, việc chuẩn bị các phiếu từ phía các Nghi lễ viên - được mời vào Phòng cùng với vị Thư ký của Hồng Y Đoàn và vị Trưởng nghi lễ các buổi cử hành phụng vụ của Tòa Thánh - các vị này phân phát cho mỗi Hồng Y 2 hay 3 phiếu; 2) thứ hai, bắt thăm giữa các Hồng Y cử tri, để chọn 3 vị Kiểm phiếu, 3 vị có nhiệm vụ thu phiếu bầu của các Hồng Y yếu đau, gọi ngắn gọn là các vị Yếu, và 3 vị Coi lại; việc bắt thăm đó được làm công khai bởi Đức Hồng Y Niên trưởng, rút thăm 9 tên của các vị sẽ đảm trách các nhiệm vụ nói trên; 3) thứ ba, nếu trong việc rút thăm các vị Kiểm phiếu, các vị Yếu và các vị Coi lại, ra trúng tên của các Hồng Y cử tri, mà vì đau yếu hay vì lý đo khác, không thể thi hành các nhiệm vụ này, thì rút thăm các vị khác không bị ngăn trở thay thế vào. Tên của ba vị đầu tiên là các vị Kiểm phiếu, ba vị kế tiếp là các vị Yếu, ba vị khác là các vị Coi lại.”

Số 70, triệt 2. ”Các vị kiểm phiếu cộng tất cả các phiếu bầu mà mỗi người đã đem lại, và nếu không có ai đủ hai phần ba số phiếu của lần bầu ấy, thì Đức Giáo Hoàng chưa được bầu; trái lại, nếu kết qủa là một người đã được ít nhất hai phần ba số phiếu, thì việc bầu giáo Hoàng Roma có giá trị giáo luật.”

Số 75. ”Nếu các lần bỏ phiếu như được nói tới trong các số 72, 73 và 74 của Tông Hiến kể trên, không có kết qủa, thì phải dành ra một ngày để cầu nguyện, suy tư và đối thoại; trong các lần bầu sau đó, tuân giữ trật tự được thiết định trong số 74 của Tông Hiến, sẽ chỉ có tiếng nói thụ động của hai vị đã được nhiều phiếu nhất trong lần kiểm phiếu trước, cũng sẽ không thể tháo lui khỏi sự thiết định rằng để việc bầu cử có giá trị, cả trong các lần kiểm phiếu này nữa, cũng phải có đa số đủ tính cách ít nhất là hai phần ba phiếu của các Hồng Y cử tri hiện diện. Trong các lần bỏ phiếu này, hai vị đã có nhiều phiếu nhất có tiếng nói thụ động, không có tiếng nói tích cực.”

Số 87. ”Sau khi đã bầu cử theo giáo luật, vị Hồng Y đẳng Phó tế cuối cùng gọi vào phòng bầu cử Thư ký của Hồng Y Đoàn, vị Trưởng ban nghi lễ phụng vụ tòa thánh và hai Nghi lễ viên; rồi Hồng Y Niên trưởng, hay vị Hồng Y cao niên nhất, nhân danh toàn Hội đồng bầu cử hỏi sự đồng ý của vị được bầu với các lời sau đây: ”Ngài có chấp nhận việc bầu cử ngài hợp giáo luật làm Giáo Hoàng không?” Sau khi nhận được sự đồng ý, thì hỏi: ”Ngài muốn được gọi tên là gì?”. Khi đó vị Trưởng nghi lễ phụng vụ tòa thánh với nhiệm vụ chưởng khế và trước hai chuyên viên nghi lễ chứng nhân, thảo một tài liệu liên quan tới việc chấp nhận của vị Tân Giáo Hoàng và tên do ngài nhận”.

Tài liêu này sẽ có hiệu lực ngay sau khi được công bố trên báo Quan Sát viên Roma.

Tôi quyết định và thiết lập, mặc cho bất cứ việc định liệu trái ngược nào.

Làm tại Roma, gần Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày 22 tháng Hai năm 2013, năm thứ tám triều đại Giáo Hoàng của tôi.

Biển Đức XVI Giáo Hoàng

(SD 25-2-2013)

Linh Tiến Khải

HIỂU BIẾT VỀ VATICAN VÀ ĐỨC GIÁO HOÀNG

  VATICAN VÀ  GIÁO HOÀNG
Giáo hoàng (tiếng Latinh: papa, tiếng Hy Lạp: πάππας pappas) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là người kế vị Thánh Phêrô - tông đồ trưởng của Chúa Giêsu. Thời gian nhiệm chức của một giáo hoàng được gọi là triều đại giáo hoàng" và thẩm quyền của ông đối với giáo hội thường được gọi là "quyền tông tòa" (papacy") mà thực thể đại diện quyền lực đó gọi là Tòa Thánh (tiếng Latinh: Sancta Sedes), dựa trên truyền thống Giáo hội cho rằng đó là chiếc ngai tòa của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô khi tử đạo tại Roma.
Thể chế giáo hoàng là một trong những cách tổ chức lâu đời nhất trên thế giới và đã đóng một phần nổi bật trong lịch sử nhân loại[1]. Các giáo hoàng đã giúp Kitô giáo được truyền đi khắp nơi và giải quyết các tranh chấp về giáo lý khác nhau. [2] Thời Trung Cổ, họ có vị trí quan trọng chính trường Tây Âu vì thường đóng vai trò là trọng tài phán quyết giữa các quốc gia Kitô giáo. [3][4][5] Ngày nay, giáo hoàng đã không còn nhiều quyền lực đối với các nhà nước thế tục, ông chỉ có thẩm quyền chính thức trong các vấn đề tôn giáo, ngoại trừ việc ông là người lãnh đạo thành quốc Vatican - quốc gia có chủ quyền trên một lãnh thổ nhỏ nhất thế giới, nằm trọn trong thủ đô Roma, nước Ý.

Mục lục

Từ nguyên

Chữ “pope” trong tiếng Anh xuất phát từ chữ “papa” trong tiếng Latinh. Tuy nhiên, đây là từ ngữ gốc Hy Lạp Cổ, dùng để chỉ người cha trong gia đình. Ban đầu, người Công giáo Đông phương nói tiếng Hy Lạp hoặc Tây phương nói tiếng Latinh đều dùng chữ “papa” để gọi các vị giám mục, linh mục trong Giáo hội, thể hiện sự tôn trọng, kính cẩn.
Ngày nay, Giáo hội Chính Thống Hy Lạp, Chính Thống Nga và Serbia vẫn dùng cách gọi như thế, tuy nhiên, Giáo hội Công giáo Rôma chỉ sử dụng từ ngữ này dành cho vị giám mục Rôma. Lịch sử Giáo hội Công giáo ghi nhận, Giáo hoàng Grêgôriô VII (1073-1085) là người đã chính thức giới hạn việc dùng từ “papa”.
Từ “Giáo hoàng” trong tiếng Việt thực ra không dịch sát từ gốc Latinh, nó được dịch cách cảm quan từ người Công giáo đối với vị lãnh đạo tinh thần đáng kính. “Giáo” nghĩa là Giáo hội, “hoàng” nghĩa là ông vua, người lãnh đạo giáo hội. Thông thường, các giáo dân Công giáo Việt Nam hay sử dụng danh xưng Đức Thánh ChaĐức Giáo Hoàng để tôn kính Giáo hoàng.
Trước thế kỷ 20 tự điển tiếng Việt còn dùng "Đức Giáo tông"' và "Đại phụ Thánh hội tông" để chỉ ngôi vị Giáo hoàng.[6]

Lịch sử

Đương kim Giáo hoàng Biển Đức XVI

Sắp xếp theo nhóm thời đại

Giáo hội Công giáo chia danh sách các giáo hoàng theo thời đại chứ không theo niên đại hay thế kỷ, ứng với những sự kiện quan trọng trong lịch sử giáo hội.
  • Thời đại Thánh Kinh (từ năm 30 đến 100 CN): gồm năm vị giáo hoàng (thời gian trị vì trong ngoặc):
  1. Thánh Phêrô (32-67).
  2. Giáo hoàng Linô (67-76).
  3. Giáo hoàng Anaclêtô (76-88).
  4. Giáo hoàng Clêmentê I (88-97).
  5. Giáo hoàng Êvaristô (97-105).
  • Thời đại các Giáo phụ (từ năm 100 đến năm 600): Giáo phụ là những tổ phụ rất thông thái và thánh thiện, đã trình bày những giảng dạy của Kitô Giáo và diễn giải Thánh Kinh cho toàn thể giáo hội. Thời đại này gồm 59 giáo hoàng, từ vị thứ 6 đến vị thứ 64 (tức Giáo hoàng Grêgôriô I)
  • Thời đại Trung Cổ (từ năm 600 đến năm 1548): Hai sự kiện lớn nằm trong thời đại này là Ly giáo Đông - TâyCải cách Kháng cách. Thời đại này có tất cả là 165 giáo hoàng, từ vị thứ 65 đến vị thứ 219.
  • Thời đại Công đồng Trent (từ năm 1548 đến năm 1958): Đây là thời kỳ của việc củng cố lại và đem ra thi hành các học thuyết, được bắt đầu bằng Công Đồng Trent (từ 1548 đến 1570). Thời đại này có tất cả là 41 giáo hoàng, từ vị thứ 220 đến vị thứ 260.
  • Thời đại Công đồng Vatican II (từ năm 1958 đến nay): Thời kỳ này có 5 giáo hoàng, từ vị thứ 261 đến vị thứ 265:
  1. Giáo hoàng Gioan XXIII (từ năm 1958 đến 1963).
  2. Giáo hoàng Phaolô VI (từ năm 1963 đến 1978).
  3. Giáo hoàng Gioan Phaolô I (một năm 1978).
  4. Giáo hoàng Gioan Phaolô II (từ năm 1978 đến 2005).
  5. Giáo hoàng Biển Đức XVI (từ năm 2005 đến 2013).

Ảnh hưởng


Giáo hoàng Benedict XVI tại một buổi tiếp kiến riêng ngày 20 tháng 1 năm 2006 ở Vatican.
Là vị Vua chuyên chế duy nhất trên thế giới ngày nay, Giáo hoàng là người được bảo vệ bởi pháp luật của Liên Hiệp Quốc và các công ước quốc tế, đó là không một tòa án nào trên thế giới được xét xử Giáo hoàng một khi ông không muốn (không cho phép).[7][8][9][10] Theo Giáo hội Công giáo Rôma, Giáo hoàng là người kế vị Thánh Phêrô và là người đại diện Thiên Chúa ở trần gian, Giáo hoàng có quyền tối thượng đối với Giáo hội Công giáo Rôma của mình trên khắp thế giới; là vị chủ chăn, người Cha tinh thần của toàn bộ hơn 1,3 tỉ người Công giáo Rôma.
Chỉ có duy nhất Giáo hoàng mới có quyền bổ nhiệm các Giám mục ở mọi giáo phận trên thế giới.
Giáo hoàng được bầu bởi Mật nghị Hồng y (conclave) sau khi vị Giáo hoàng đương nhiệm băng hà. Ngày nay, có lẽ Giáo hoàng là người có vị thế nhất trên trái đất, tiếng nói của Giáo hoàng cũng là tiếng nói có uy lực.[11][12] Quyền lực của Giáo hoàng và Tòa Thánh Vatican, bất chấp diện tích nhỏ bé nhất địa cầu của đất nước và nền kinh tế phi thương mại duy nhất hành tinh, đã thâu tóm ảnh hưởng thế giới trên nhiều bình diện từ trong lịch sử xa xưa của loài người cho đến kỷ nguyên hiện đại hôm nay nhờ vào vô số những đóng góp vĩ đại xuất phát từ Giáo hội Công giáo cũng như các thành viên của họ cho nhân loại mà con người ngày nay đang thụ hưởng.[13][14][15][16]
Giáo hoàng luôn được xếp trong danh sách những người có quyền lực và ảnh hưởng nhất hành tinh do các tạp chí danh tiếng thế giới như TIME, Forbes bình chọn.[17][18][19][20][21][22][23][24][25] Giáo hoàng luôn nằm trong danh sách vì thỏa mãn đủ cả bốn tiêu chí căn bản của việc bình chọn, đó là, người có ảnh hưởng tới rất nhiều người; người kiểm soát một nguồn tài chính lớn; người có quyền lực lớn ở nhiều lĩnh vực khác nhau; và, người thực sự dùng quyền lực đó để thi hành chức vụ mình đảm nhiệm. Một trong những vị Giáo hoàng thời hiện đại, Chân phước Gioan Phaolô II, được TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất với nhân loại của thế kỷ 20 và cả những năm đầu thế kỷ 21.[26]

Tòa Thánh Vatican nhìn từ Quảng trường St. Peter's, nơi thu hút hàng chục triệu khách du lịch và người hành hương mỗi năm, là Kinh đô của Giáo hội Công giáo Rôma, là nơi cư ngụ và biểu trưng quyền lực vươn ra thế giới của Tòa Thánh và các vị Giáo hoàng
Chính nhờ những cống hiến của Giáo hội Công giáo, đứng đầu là Giáo hoàng, cho nhân loại mà góp phần làm tăng thêm quyền lực thực sự cũng như các quyền lực mềmquyền lực tinh thần cho Giáo hoàng, trong đó tiêu biểu như:[13]
  • Giáo hội Công giáo sở hữu và điều hành hơn 1/4 (26%) số bệnh viện và cơ sở chăm sóc y tế trên toàn thế giới, nhiều hơn bất kỳ quốc gia, tổ chức hay định chế nào, bao gồm: hơn 117.000 cơ sở chăm sóc y tế; 5.428 bệnh viện lớn; 18.025 phòng khám đa khoa và chuyên khoa; 15.985 trại tế bần, viện dưỡng lão, trung tâm chăm sóc người tàn tật; 9.962 cô nhi viện; 11.902 trường đào tạo y bác sĩ; 13.945 trung tâm tư vấn hôn nhân gia đình; 529 trung tâm chăm sóc người phong cùi, hủi; hơn 18.000 xưởng sản xuất thuốc và nhà thuốc; và hơn 34.250 cơ sở chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS và cơ sở y tế các loại khác...[14][31][32]
Bologna, trường Đại học đầu tiên trên thế giới, được thành lập bởi sắc chỉ của Giáo hoàng Urban II năm 1088, và vẫn hoạt động cho đến ngày nay.
  • Giáo hội Công giáo sở hữu và điều hành khoảng 1/5 (25%) hệ thống giáo dục toàn cầu gồm: 67.848 nhà trẻ và trường mẫu giáo; 93.315 trường tiểu học; 42.234 trường trung học; hàng ngàn trường đại học, viện đại học và học viện trên khắp thế giới với số lượng lên tới hơn 50 triệu sinh viên.[15][16][32] Giáo hội Công giáo còn điều hành hàng trăm tổ chức và viện nghiên cứu cao cấp về các lĩnh vực khác nhau khắp thế giới, 01 viện hàn lâm khoa học và nhiều viện nghiên cứu sinh học, vật lý, thiên thể, vũ trụ, lượng tử, toán học, hóa học, hạt nhân...[32] Giáo hội Công giáo đã phát triển và đặt nền tảng cho hệ thống giáo dục đại học hiện đại bằng việc mở các trường đại học đầu tiên trên thế giới như Đại Học Bologna (thành lập năm 1088, là trường đại học đầu tiên trên thế giới và vẫn hoạt động đến ngày nay); Đại Học Paris (1150), Đại Học Oxford (1167); Đại Học Salerno (1173); Đại Học Vicenza (1204), Đại Học Cambridge (1209); Đại Học Salamanca (1218-1219); Đại Học Padua (1222); Đại Học Naples (1224); Đại Học Vercelli (1228); Đại Học La Sapienza (1303, là trường đại học có đông sinh viên nhất thế giới với gần 150.000 sinh viên), v.v.[15][16] Đến giữa thế kỷ XV (khoảng 70 năm trước khi thời kỳ Cải Cách), đã có hơn 50 trường đại học Công giáo trên toàn châu Âu.[15][16]
  • Giáo hội Công giáo thiết lập nền tảng của hệ thống Pháp Luật và ngành Luật học. Vào đầu thế kỷ thứ 12, các giáo sĩ Công giáo đã tạo ra một bộ luật hoàn chỉnh và có tính khoa học đầu tiên trên thế giới mà trong đó tất cả điều khoản, các phần tương hợp với nhau trong một tổng thể chung.[15][16] Vào năm 1088, Giáo hoàng Urban II thể nghiệm ngành luật bằng cách cho thành lập Đại Học Bologna với phân khoa luật, từ đó nghề luật nổi lên, và khái niệm như "tổ chức pháp nhân", "cơ quan", "tổ chức", "cơ sở pháp lý", "công ty", "quỹ tín thác"... ra đời.[15][16] Và một loạt các nguyên tắc về luật học như tôn trọng quyền lợi các bên, bình đẳng trước pháp luật, luật pháp quốc tế, xét xử, bồi thẩm đoàn, lệnh đình chỉ bắt giam và việc bắt buộc phải chứng minh sự hồ nghi tội phạm vượt quá khả năng phạm tội... cũng được các tu sĩ Công giáo hình thành.[15][16] Đây chính là sự thành hình cho các ngành luật hiện đại.
  • Giáo hội Công giáo điều hành một trong những tổ chức từ thiện lớn nhất hành tinh là Caritas. Caritas Quốc tế (Caritas Internationalis) là một hiệp hội của 164 tổ chức cứu trợ nhân đạo quốc tế và phục vụ phát triển xã hội do Giáo hội Công giáo Rôma điều hành, hoạt động tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.[33] Caritas cùng với Cơ Quan Cứu Trợ Nhân Đạo Liên Hiệp Quốc (UNRRA) là hai tổ chức cứu trợ lớn nhất thế giới. Tại Việt Nam, Caritas được Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam thành lập ở cấp Trung Ương vào năm 1965. Do biến động thời cuộc, tháng 6 năm 1976, Caritas Việt Nam bị Nhà nước Việt Nam yêu cầu phải giải thể. Với sự kiên trì của Hội đồng Giám mục Việt Nam, Caritas Việt Nam đã được tái lập vào ngày 2 tháng 7 năm 2008. Caritas Việt Nam đã tái hòa nhập làm một thành viên của Caritas Quốc tế, tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam vẫn chưa cho phép để Caritas Quốc tế đặt chi nhánh ở Việt Nam.[34]
Đại học Oxford, tiền thân là ngôi trường do Thánh nữ Hilda lập, lấy châm ngôn là: Thiên Chúa là Nguồn sáng của tôi (tiếng Latinh: Dominus Illuminatio Mea, tiếng Anh: The Lord is my Light), Thánh vịnh 27.1
  • Giáo hội Công giáo khởi xướng phong trào đề cao phụ nữ và nữ quyền. Trái với định kiến trọng nam khinh nữ vào thời xưa, Giáo hội đánh giá cao người phụ nữ và đã tôn vinh nhiều vị Thánh nữ, nâng một số Thánh nữ lên hàng Tiến sĩ Giáo Hội, một tước hiệu cao quý chỉ được trao cho một vài vị Thánh lỗi lạc của Giáo hội Công giáo, và tỏ lòng quý trọng các nữ tu. Sỡ dĩ nữ tu không được làm linh mục trong Giáo hội là vì truyền thống do Chúa Giêsu đặt để chỉ chọn người nam làm linh mục, Giáo hội không có thẩm quyền sửa đổi truyền thống này. Nhiều phụ nữ đã để lại vết son trong sử sách Giáo hội như Thánh nữ Hilda là người đã thành lập Đại Học Oxford, Hoàng hậu Matilda và Nữ hoàng đầu tiên của nước Anh Mary Tudor, là những người nữ tiên phong trong lĩnh vực chính trị. Công giáo cũng mang đến cho nền văn minh con người nhiều nhà khoa học và giáo sư là phụ nữ đầu tiên trên thế giới như nữ giáo sư vật lý Italia TrotulaSalermo trong thế kỷ 11, và nữ giáo sư vật lý Dorotea Bucca, người đã giữ ghế giáo sư y khoa trưởng tại Đại Học Bologna, nữ triết gia Elena Lucrezia Piscopia, người phụ nữ đầu tiên trên thế giới nhận bằng tiến sĩ triết học (1678) và Maria Agnesi (1799), một triết gia, nhà giả kim học, nhà ngôn ngữ học và nhà toán học là người phụ nữ được Giáo hoàng Benedict XIV chỉ định trở thành giáo sư toán học đầu tiên tại Italia vào năm 1750.[15][16] Vào tháng 3 năm 2004, Mary Ann Glendon, giáo sư luật học tại Đại học Harvard, cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Tòa Thánh, chủ tịch Hội đồng Đạo đức Sinh học của tổng thống Mỹ được Giáo hoàng Gioan Phaolô II chỉ định làm Chủ tịch Viện Hàn Lâm Khoa Học Giáo Hoàng và là người phụ nữ đầu tiên trên thế giới đảm trách chức vụ này;[35] trước đó vào năm 1995, Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã chọn bà là người đại diện Vatican tham dự Hội nghị Quốc tế về các Quyền của Phụ nữ tại Bắc Kinh (Trung Quốc) do Liên Hiệp Quốc tổ chức.
Cũng như các Giáo hoàng trước, Benedict XVI là một học giả thần học uyên thâm và thông thạo nhiều ngôn ngữ như tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Hy Lạptiếng Do Thái...
  • Giáo hội Công giáo kiến tạo và phong phú hóa các hệ thống ngôn ngữ căn bản của con người như tiếng Hy Lạp, Latinhbảng chữ cái alphabet. Giáo hội cũng sáng tạo ra hệ thống chữ nổi Braille dành cho người mù. Vào năm 1784, Valentin Haüy, anh trai của Abbé Haüy, một linh mục Công giáo người Pháp, người phát minh ra tinh thể học, đã thành lập ngôi trường đầu tiên trên thế giới dành cho người mù mang tên Viện Khiếm thị Hoàng gia thanh thiếu niên tại Paris (ngày nay gọi là Viện Quốc gia người khiếm thị, INJA). Sinh viên nổi tiếng nhất của trường này, Louis Braille, vào học năm 1819, với sự hướng dẫn của Valentin Haüy đã phát triển một hệ thống chữ nổi cho người mù đọc mà ngày nay trên toàn thế giới hệ thống chữ Braille này mang tên ông.[15][16] Tại Việt Nam, vào thế kỷ thứ 17, nhà truyền giáo Dòng Tên Alexandre de Rhodes người Pháp là người đầu tiên sáng tạo, biên soạn và truyền bá chữ quốc ngữ mà người Việt Nam sử dụng ngày nay. Chữ quốc ngữ Việt Nam hiện đại có một số cải tiến theo thời gian, nhưng chủ yếu vẫn lấy nền tảng là công trình tự điển Việt-Bồ-La xuất bản ở Rôma năm 1651 và hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh do linh mục Alexandre de Rhodes biên soạn.[36]
  • Giáo hội Công giáo sáng tạo và thiết lập niên lịch mà con người ngày nay sử dụng hằng ngày. Lịch được sử dụng như là một phần của hệ thống duy trì thời gian hoàn hảo mà trong đó ngày tháng và thời gian của một ngày cùng nhau chỉ ra các thời điểm theo thời gian. Bộ lịch được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới ngày nay là lịch Gregory, hay còn gọi là Dương Lịch. Bộ lịch này là tiêu chuẩn quốc tế đo lường thời gian và được sử dụng ở khắp thế giới cho các mục đích khác nhau, bao gồm cả Trung QuốcẤn Độ, vốn là những quốc gia trước đây sử dụng lịch khác. Lịch Gregory là bộ lịch do Giáo hoàng Grêgôriô XIII ban hành vào năm 1582 lấy mốc thời gian Chúa Giêsu sinh ra làm năm số 0, còn gọi là Công nguyên, và khoảng thời gian trước năm 0 gọi là trước Công nguyên (Before Christ), sau năm 0 gọi là sau Công nguyên (Anno Domini) và chia lại các thời kỳ của lịch sử con người. Bộ lịch này chia năm thành 12 tháng với 365 ngày, cứ mỗi chu kỳ hết 3 năm thì thêm một ngày vào cuối tháng 2 tạo thành năm nhuận.

An ninh

Giáo hoàng được đánh giá là người được bảo vệ nghiêm nghặt nhất trên thế giới.[37]
Theo Reuters, sau Hiệp ước Lateran được ký vào năm 1929 với phần quy định về đảm bảo an ninh cho Vatican và người đứng đầu Tòa Thánh, thì bên cạnh hơn 100 Vệ binh Thụy Sỹ luôn túc trực, Giáo hoàng còn được bảo vệ bởi khoảng 2000 nhân viên thuộc các cơ quan an ninh và phản gián như CIA, FBI, đặc nhiệmmật vụ Italia, cảnh sát Italia, đội hiến binh Vatican, các đặc vụ gián điệp chìm...[38] Khi ra nước ngoài công du, thì theo luật quốc tế, Giáo hoàng được bảo vệ bằng mọi giá bởi các cơ quan an ninh chuyên nghiệp nhất của quốc gia mà ông đến.[37][39]
Giáo hoàng là một yếu nhân có khả năng quy tụ công chúng đông đảo hiếm thấy trên thế giới. Các buổi lễ do Giáo hoàng cử hành dù ở Vatican hay ở nước ngoài đều lôi kéo được một số lượng khổng lồ các tín hữu, các nguyên thủ quốc gia và ngoại giao đoàn đến tham dự dẫn đến những quan ngại về an ninh cực lớn đối với các giới chức. Thông thường một buổi lễ hay nghi thức phụng vụ ngoài trời do Giáo hoàng chủ sự có đến hàng trăm ngàn người cho tới nhiều triệu người tham dự tùy vào địa điểm tổ chức có thể quy tụ được số lượng bao nhiêu.[40] Vào ngày 1 tháng 5 năm 2011, có hơn 2 triệu người, đông gấp đôi dân số thành phố Rôma, và 23 nguyên thủ quốc gia, 5 gia đình hoàng gia châu Âu đến Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican tham dự Lễ Phong Chân phước cho Giáo hoàng Gioan Phaolô II do Giáo hoàng Benedict XVI cử hành.[41][42] Các kỳ Đại hội Giới trẻ Thế giới được tổ chức 3 năm một lần cũng là dịp Giáo hoàng quy tụ hàng triệu người trẻ khắp năm châu về tham dự, dẫn đến các công tác an ninh càng được thắt chặt. Tại lễ bế mạc Đại hội Giới trẻ Thế giới đầu tiên được tổ chức tại Á châu là ở Philippines vào tháng 1 năm 1995 đã có hơn 5 triệu người tham dự nghi thức do Giáo hoàng Gioan Phaolô II cử hành.[40]
  • An ninh cho các chuyến công du của Giáo hoàng

Hơn hai triệu người đổ ra đường chào đón Giáo hoàng Benedict XVI trong chuyến công du Brazil của ông vào tháng 5 năm 2007.
Cảnh sát và Mật vụ Hoa Kỳ hộ tống Giáo hoàng Benedict XVI trong chiếc Popemobile đi qua Central Park ở New York, ngày 19 tháng 4 năm 2008.
Gần đây, như chuyến tông du của Giáo hoàng Benedict XVI tới Israel vào tháng 5 năm 2009, quân đội nước này đã mở chiến dịch quân sự lớn chưa từng có trong lịch sử quốc gia mang tên "Chiếc Áo Choàng Trắng" (Operation White Cloak), huy động đến 80.000 nhân viên an ninh gồm mật vụ, đặc nhiệm, cơ động phản ứng nhanh, cảnh sát, binh sĩ thuộc quân đội và hàng chục ngàn nhân viên an ninh chìm, phản gián để bảo vệ người đứng đầu Tòa Thánh Vatican. Trong đó lên tới 60.000 sĩ quan cảnh sát, còn lại 20.000 là các nhân viên mật vụ, đặc nhiệm và quân đội.[37] Trước đó, hai cuộc viếng thăm cấp nhà nước của hai tổng thống MỹGeorge W. BushBarack H. Obama vào năm 2008 đến Israel được quốc gia này bảo đảm an ninh lần lượt bằng 3.500 và 5000 nhân viên cảnh sát, nhỏ hơn khoảng 20 lần về quy mô so với an ninh dành cho Giáo hoàng Benedict XVI.[37]
Trong chuyến công du vào tháng 4 năm 2008 của Giáo hoàng Benedict XVI tới Mỹ, để đảm bảo an toàn cho thủ lĩnh các tín đồ Công giáo,[43] tổng thống George W. Bush lúc ấy đã huy động lực lượng an ninh lên mức cao nhất theo thang sự kiện quốc gia là 15.000 cảnh sát và mật vụ, ngang bằng với an ninh mà Lầu Năm Góc áp dụng để bảo vệ các kỳ họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc với sự tham dự của hàng trăm nguyên thủ quốc gia khắp thế giới và an ninh cho lễ nhậm chức của tổng thống Barack Obama.[37][39][43]
Vào tháng 9 năm 2010, trong chuyến thăm chính thức Anh Quốc của Giáo hoàng, các giới chức chính phủ nước này cũng đã điều động một lực lượng an ninh hùng hậu lên đến gần 16.000 cảnh sát, mật vụ làm nhiệm vụ bảo vệ.[44]
Thông thường, an ninh áp dụng để bảo vệ Giáo hoàng trong các chuyến đi ra khỏi Vatican hay tông du nước ngoài được thắt chặt tối đa, bao gồm: Nhân viên nhiều bộ ngành được triển khai để phân tích tổng hợp các nguy cơ và ngăn chặn, đối phó với bất kỳ cuộc tấn công khủng bố nào. Một lực lượng cảnh sát khổng lồ mặc quân phục cũng như thường phục được bố trí trên khắp các đường phố. Chó nghiệp vụ được huy động để phát hiện bom.[37] Cảnh sát phong tỏa toàn bộ giao thông và các tuyến đường, cấm mọi loại xe cộ đi lại trong những khu vực bán kính Giáo hoàng di chuyển bằng việc thiết lập "vùng đóng băng" ở các tuyến phố trung tâm. Phải có giấy phép hay vé tham dự và phải qua kiểm tra quét toàn thân trước khi được vào những nơi này. Hàng nghìn máy quay được thiết lập ở các góc đường và quảng trường. Các tay thiện xạ, bắn tỉa được bố trí trên các điểm cao.[39] Trực thăng cảnh sát tuần tiểu trên trời trong không phận Giáo hoàng hiện diện hay đi ngang qua và thiết lập vùng cấm bay bằng các chiến đấu cơ phản lực tuần tra vùng trời, vùng biển. Cảnh sát cũng triển khai các hệ thống vũ khí đất đối không. Tại các bến cảng, cảnh sát thợ lặn tuần tra dọc các con sông và bên dưới mặt nước, tàu thuyền được trang bị súng máy. Chuẩn bị cho các tấn công bất ngờ bằng vũ khí hóa học và sinh học. Hệ thống y tế lưu động cũng được thiết lập trên quy mô lớn trong trường hợp xảy ra tấn công vào Giáo hoàng hoặc đám đông.[43]
Một chuyến công du của Giáo hoàng phải mất tối thiểu hàng chục triệu đô la chi phí, và được coi là người tốn nhiều tiền nhất cho việc công du trên thế giới, hơn hẳn tổng thống các quốc gia hay các vuanữ hoàng. Mỗi lần Giáo hoàng đi công du thì các cơ quan an ninh Vatican, và Bộ Nội vụ Italia phải phối hợp với các cơ quan an ninh nước chủ nhà để tính toán chuyến hành trình của Giáo hoàng trước đó nhiều tháng trời, thậm chí là nhiều năm. Các cơ quan này muốn có càng nhiều thời gian chuẩn bị càng tốt để hoạch định cho một chuyến đi nước ngoài như vậy của Giáo hoàng. Nhưng trong một số trường hợp đặc biệt, họ phải làm việc khẩn trương. Đó cũng là lý do mà Vatican cho duy trì một bộ phận nghiên cứu bảo vệ an ninh trên diện rộng, chuyên nghiên cứu và đánh giá những mối đe dọa toàn cầu.
  • An ninh cho Lễ An táng và Đăng quang Giáo hoàng

Từ trái sang: Tổng thống Mỹ George W. Bush, Đệ nhất phu nhân Laura Bush, các cựu tổng thống George H. W. Bush và Bill Clinton, Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice, Chánh văn phòng Nhà Trắng Andrew Card quỳ cầu nguyện trước linh cữu Giáo hoàng Gioan Phaolô II ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô tại Vatican, ngày 6 tháng 4 năm 2005.
Vào tháng 4 năm 2005, một sự kiện đảm bảo an ninh chưa từng có trong lịch sử hiện đại đã diễn ra tại Vatican. Thời điểm đó, có hơn 200 nguyên thủ quốc gia và phái đoàn ngoại giao khắp thế giới, 117 Hồng y bầu chọn Giáo hoàng mới, các nhà lãnh đạo các tôn giáo lớn trên thế giới và gần 5 triệu tín đồ Công giáo tuôn về Vatican dự Lễ An táng Giáo hoàng Gioan Phaolô II, lễ tang lớn nhất trong lịch sử loài người và quy tụ nhiều lãnh đạo thế giới nhất. Trong đó có nhiều gia đình hoàng gia khắp năm châu, nhiều vua chúa, nữ hoàng và các nhà quý tộc. Phái đoàn của Mỹ là rầm rộ nhất với 3 vị tổng thống George W. Bush, George H. W. Bush, Bill Clinton, ngoại trưởng Condoleezza Rice, đệ nhất phu nhân Laura Bush và Tổng thư ký Liên hiệp quốc Kofi Annan. Điều này khiến cho Hồng Y Đoàn, có nhiệm vụ điều hành Vatican khi Giáo hoàng băng hà, quan ngại và yêu cầu sự giúp đỡ từ bên ngoài. Vì tang lễ của cố Giáo hoàng, cơ mật viện bầu Giáo hoàng mới và lễ đăng quang của tân Giáo hoàng sẽ biến Vatican thành mục tiêu của khủng bố.[45][46]

Bản đồ các quốc gia (màu tím) có nguyên thủ quốc gia, hoàng gia và phái đoàn ngoại giao chính thức đến dự tang lễ Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại Vatican.
Trước tang lễ vào sáng thứ sáu ngày 8 tháng 4 năm 2005, NATOkhông quân Italia (Aeronautica Militare Italiana) đã cho thiết lập vùng cấm bay trên không phận toàn thành phố Rôma và bán kính 5 dặm xung quanh đó. Các máy bay chiến đấu cường kích có gắn tên lửa hành trình và tên lửa không đối không cùng hệ thống tên lửa không đối đất của NATO được triển khai. Dưới mặt đất quân đội cũng lắp đặt các hệ thống tên lửa phòng thủ, bệ phóng tên lửa chống hạm và đất đối không xung quanh thành phố Vatican với sự cho phép miễn cưỡng của Hồng Y Đoàn vì tình thế quá khẩn trương. Dọc bờ biển Địa Trung Hải, các tàu chiến của hải quân Italia (Marina Militare) được bố trí tuần tra ngày đêm cùng hệ thống tàu ngầm có ngư lôi tìm diệt và tên lửa hành trình. Trên các con sông bao bọc thành phố Rôma, cảnh sát tuần tra dày đặc bằng thuyền máy và canô, nhất là dòng sông Tiber huyền thoại chảy ngang qua Vatican. Hơn 1000 tay súng bắn tỉa được lệnh án ngữ mọi điểm cao và hỗ trợ cho hàng chục ngàn cảnh sát rà phá bom mìn trên đường phố. Các trực thăng chiến đấu và trinh sát cũng được huy động để quan sát, bảo vệ Rôma từ trên không. Rôma với 2 triệu người dường như quá tải bởi dòng người gấp 3 lần dân số của nó đổ về. Chiều hôm trước ngày lễ an táng, chính phủ đã cho đóng cửa 2 sân bay bận rộn nhất nước là sân bay quốc tế Leonardo da Vinci (Fiumicino) và sân bay quân sự Ciampino ở Rôma. Các tuyến tàu điện ngầm và xe buýt cũng bị buộc phải ngưng hoạt động đến hết lễ tang.[45][47][48][49][50]
Những biện pháp an ninh trên cũng được áp dụng cho lễ đăng quang của Giáo hoàng Benedict XVI vào ngày 24 tháng 4 năm 2005.

Quyền bính

Giáo hoàng với Triều thiên Ba tầng (Papal Tiara) tượng trưng cho việc cai quản, thánh hóa, chăm sóc các tín hữu. Gậy Mục tử (Crosier) tượng trưng cho quyền bính. Dây Pallium được làm bằng lông cừu để nói lên Giáo hoàng là chủ chiên lành thay Chúa Kitô vác chiên trên vai; nhẫn Ngư phủ (Ring of the Fisherman) trên mặt có hình Thánh Phêrô đang đánh cá. Khi Giáo hoàng băng hà thì nhẫn đó được hồng y giáo chủ nhiếp chính đập vỡ đi để tránh giả mạo.

Bầu cử, qua đời và thoái vị

Bầu cử

Qua đời

Thoái vị

Các biểu tượng và huy hiệu của Giáo hoàng

Mỗi triều đại Giáo hoàng đều có biểu tượng và huy hiệu riêng. Tuy nhiên, biểu tượng và huy hiệu của Tòa Thánh và Quốc gia Vatican thì chỉ có một.

Văn kiện của Giáo hoàng

Các giáo hoàng phát biểu hoặc đưa ra các tài liệu theo từng loại để nhận biết với từng mức độ thẩm quyền và ảnh hưởng chung đến giáo hội. Các văn kiện đó phải bởi chính giáo hoàng chứ không phải bởi một người trung gian nào ghi nhận.
  • Tông Hiến (Constitutio Apostolica): là một loại văn kiện rất quan trọng, bao gồm những đạo luật sửa chữa, bổ sung hay làm mới do giáo hoàng đưa ra. Tông hiến tác động rất lớn đối với hệ thống Giáo luật của Giáo hội và Pháp luật Thành Vatican.
  • Tông Thư (Littera Apostolica): Là những lá thư kém quan trọng hơn so với Tông Hiến, chúng có thể được viết ra dựa trên một vấn đề có liên quan tới học thuyết (ví dụ: Thư của Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhân dịp bắt đầu thiên niên kỷ thứ ba). Chúng cũng có thể thông báo một quyết định nào đó của giáo hoàng, chẳng hạn như phong chân phước một người nào đó, nâng một nhà thờ nào đó lên thành Vương cung thánh đường… nhưng nó mang nghĩa riêng tư.
  • Tông Huấn: Văn kiện này tương tự như Tông Thư, nhưng chứa đựng nhiều những kết luận, những đường hướng, những chỉ dẫn của giáo hoàng, sau khi đã suy xét vấn đề.
  • Tông Dụ (Epistula Apostolica): Văn kiện hướng dẫn của giáo hoàng dành cho những người cấp dưới thực hiện.
  • Sắc lệnh (Decretum): là những quy tắc pháp lý được ban hành để giải quyết những vấn đề cấp bách, không có tính ổn định của Giáo hội, nhưng chưa phải là luật hoặc đang trong giai đoạn hình thành luật. Sắc lệnh gồm có tổng quát và riêng biệt (khi có đơn thỉnh cầu để xin một ân ban nào đó).
  • Sắc chỉ (Bulla): là văn kiện bổ nhiệm các chức vụ trong giáo hội.
  • Tự sắc (Motu Proprio): Văn kiện thể hiện ý kiến hoặc tư tưởng riêng của giáo hoàng, không phải để trả lời cho một yêu cầu hay một ý kiến của người khác. Tình trạng hợp hiến do giáo hoàng đó quyết định. Tự sắc thường không tác động đến Giáo luật hiện hành của Giáo hội.
  • Thông Điệp: Những thông điệp ngắn gọn được viết hay được đọc ra, thường truyền đạt lời đón chào riêng của giáo hoàng đến với các cá nhân hay các nhóm người. Nội dung thường là để cổ võ, khuyến khích đời sống đức tin, luân lý dựa trên những biến đổi của xã hội, thế giới.
  • Tuyên bố Chung (Declaratio): Tức là tuyên bố chung của giáo hoàng với một vị lãnh đạo của một tôn giáo khác có liên quan đến sự hiểu biết chung.
  • Bài giảng: Tức là các bài giảng của giáo hoàng về những đoạn Kinh Thánh tại Thánh Lễ.
  • Buổi Tiếp kiến: Buổi Tiếp kiến Chung của giáo hoàng dành cho dân chúng, diễn ra vào Thứ Tư hằng tuần, tại Quảng trường Thánh Phêrô hoặc một địa điểm nào đó tại Vatican như Đại Thính Đường Phaolô VI. Các bài diễn thuyết của giáo hoàng khi tiếp kiến chung thường phản ánh tình hình thời đại. Buổi Tiếp kiến Riêng của giáo hoàng dành những cá nhân hay các nhóm. Chủ đề các bài nói chuyện lúc này tương ứng, thích hợp với khách mời. Ví dụ, vấn đề về y học đối với một nhóm các bác sĩ; hay tình hình thế giới với các nguyên thủ quốc gia, các nhà ngoại giao; những giảng dạy và những thủ tục của Giáo hội đối với các giám mục, viên chức của Giáo triều Rôma. Các buổi tiếp kiến dạng này thường diễn ra tại Sảnh Đường Công Nghị, Điện Tông Tòa hoặc Đại Thính Đường Phaolô VI.
  • Diễn Thuyết: Các văn kiện của giáo hoàng bên ngoài phạm vi của Thánh Lễ hay bên ngoài của những buổi tiếp kiến, có thể khi giáo hoàng đến thăm một nơi nào đó.

Các bài hát về Giáo hoàng

Các ngụy Giáo hoàng

Các Giáo hoàng ở ngôi dài nhất


Piô IX, không tính Thánh Phêrô, ông được coi là vị giáo hoàng có thời gian trị vì dài nhất
Danh sách các giáo hoàng có thời gian trị vì dài nhất được xác định từ các tài liệu lịch sử được thống kê như sau:
  1. Piô IX (1846-1878): 31 năm, 7 tháng và 23 ngày (11.560 ngày).
  2. Gioan Phaolô II (1978-2005): 26 năm, 5 tháng và 18 ngày (9665 ngày).
  3. Lêô XIII (1878-1903): 25 năm, 5 tháng và 1 ngày (9.281 ngày).
  4. Piô VI (1775-1799): 24 năm, 6 tháng và 15 ngày (8.962 ngày).
  5. Adrian I (772-795): 23 năm, 10 tháng và 25 ngày (8.729 ngày).
  6. Piô VII (1800-1823): 23 năm, 5 tháng và 7 ngày (8.560 ngày).
  7. Alexander III(1159-1181): 21 năm, 11 tháng và 24 ngày (8.029 ngày).
  8. Sylvester I (314-335): 21 năm, 11 tháng và 1 ngày (8.005 ngày).
  9. Lêô I (440-461): 21 năm, 1 tháng, và 13 ngày (7.713 ngày).
  10. Ubanô VIII (1623-1644): 20 năm, 11 tháng và 24 ngày (7.664 ngày).
Mặc dù một số tài liệu cho rằng Thánh Phêrô trị vì trong khoảng 30 năm (sau 29 - 64? / 67?) nhưng tính cho đúng thì những tài liệu này thiếu chính xác nên tên của ông không được liệt kê ở đây.

Các Giáo hoàng ở ngôi ngắn nhất

Bên cạnh đó có những giáo hoàng có thời gian trị vì rất ngắn chưa tới một tháng. Vì vậy, nếu triều đại của một giáo hoàng được bắt đầu vào ngày 1 tháng 8 và qua đời vào ngày 2 tháng 8, thì triều đại của vị giáo hoàng này sẽ được tính là 2 ngày.
  1. Ubanô VII (15 tháng chín-27 tháng chín 1590): 13 ngày, mất trước khi đăng quang.
  2. Boniface VI (tháng tư, 896): 16 ngày.
  3. Celestine IV (25 tháng mười-10 tháng mười một, 1241): 17 ngày, mất trước khi đăng quang.
  4. Theodore II (tháng mười hai, 897): trong 20 ngày.
  5. Sisinnius (15 tháng một tháng hai 4.-708): 21 ngày.
  6. Marcellus II (9 tháng tư.-1 tháng năm 1555): 22 ngày.
  7. Đamaxô (17 tháng bảy-9 tháng tám 1048): 24 ngày.
  8. Piô III (22 tháng chín-18 tháng mười 1503): 27 ngày.
  9. Lêô XI (1 tháng tư-27 tháng tư 1605): 27 ngày.
  10. Biển Đức V (22 tháng năm-23 tháng sáu 964): 33 ngày.
  11. Gioan Phaolô I (26 tháng tám-28 tháng chín 1978): 33 ngày.
Sttêphanô (23 tháng ba - 26 tháng ba, 752) mất đột ngột sau khi được bầu làm giáo hoàng ba ngày, và trước khi được tấn phong làm giám mục. Ông đã không được công nhận là giáo hoàng hợp lệ nhưng đã được thêm vào danh sách của các giáo hoàng của thế kỷ 15 với tông hiệu là Stêphanô II. Chính điều này đã gây khó khăn cho việc liệt kê các giáo hoàng có tên Stêphanô sau đó. Tên của ông đã bị loại bỏ khỏi danh sách các giáo hoàng do nghị quyết của Vatican vào năm 1961.

Các Tước hiệu của Giáo hoàng

Giáo hoàng có nhiều danh xưng khác nhau như:[51]
  • Đức Giáo Hoàng (Pope, His Holiness)
  • Đức Thánh Cha (Holy Father)
  • Giám mục Thành Rôma (Bishop of Rome)
  • Đại diện Chúa Kitô (Vicar of Christ)
  • Đấng Kế vị Thánh Phêrô, Thủ lãnh các Tông Đồ (Successor of the Prince of the Apostles)
  • Thủ Lãnh Tối Cao của Giáo Hội Hoàn Vũ (Supreme Pontiff of the Universal Church)
  • Giáo Chủ nước Ý (Primate of Italy)
  • Tổng Giám Mục và Tổng Giáo Chủ Giáo tỉnh Rôma (Archbishop and Metropolitan of the Roman Province)
  • Quốc vương nước Vatican (Sovereign of the State of the Vatican City)
  • Tôi tớ các Tôi tớ của Thiên Chúa (Servant of the Servants of God)
Ngoài ra, Bộ Giáo Luật (x. Canon 331) còn ghi những danh xưng khác như:
  • Đức Giáo Hoàng Rôma (Romanus Pontifex, The Roman Pontiff)
  • Thủ Lãnh của Giám mục Đoàn (Caput Collegii, Head of the College of Bishops)
  • Thượng Phụ Giáo Chủ Tây Phương (Patriarch of the West)

Các Giáo hoàng

Giáo hoàng đầu tiên được Giáo hội Công giáo Rôma cho là Thánh Phêrô, tông đồ trưởng của Chúa Giêsu. Giáo hoàng hiện nay là Biển Đức XVI, kế vị sau Gioan Phaolô II, trước đó đã có 264 người được nhận chức giáo hoàng.