label

Thứ Ba, 25 tháng 2, 2020

Sứ điệp Mùa Chay năm 2020 của ĐTC Phanxicô

Sứ điệp Mùa Chay năm 2020 của ĐTC Phanxicô

Lúc 11h30 sáng thứ Hai 24/02 giờ Roma, Đức Thánh Cha đã cho công bố sứ điệp Mùa Chay năm 2020, hai ngày trước thứ Tư Lễ Tro.
“Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa.” (2Cr 5,20)
Anh chị em thân mến!
Năm nay, một lần nữa, Chúa ban cho chúng ta một thời gian thuận tiện để chuẩn bị cử hành, với trái tim được canh tân, Mầu nhiệm vĩ đại về sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu, là mấu chốt đời sống Kitô hữu với tư cách cá nhân cũng như cộng đoàn. Tâm trí chúng ta phải không ngừng trở về với mầu nhiệm này, vì nó không ngừng lớn lên trong chúng ta theo mức độ chúng ta mở lòng ra với sự năng động thiêng liêng của nó và bằng sự đáp trả cách tự do và quảng đại.
1. Mầu nhiệm phục sinh, nền tảng của sự hoán cải
Niềm vui của người Kitô hữu xuất phát từ việc lắng nghe và đón nhận Tin Mừng về sự chết và sống lại của Chúa Giêsu: kerymaKeryma này tóm gọn mầu nhiệm của một tình yêu “chân thực và cụ thể đến nỗi nó mời gọi chúng ta đi vào một mối tương quan cởi mở và cuộc đối thoại đầy chân thành và hữu hiệu” (Tông huấn Christus vivit, 117). Bất cứ ai tin vào lời loan báo này thì loại bỏ sự dối trá cho rằng sự sống của chúng ta bắt nguồn từ chính chúng ta, trong khi thực tế là nó xuất phát từ tình yêu của Chúa Cha, từ ý muốn của Ngài ban cho chúng ta sự sống tràn đầy (x. Ga 10,20). Ngược lại, nếu chúng ta lắng nghe tiếng nói dụ dỗ của “cha kẻ dối trá” (x. Ga 8,45), chúng ta có nguy cơ chìm trong vực thẳm vô nghĩa, khi trải nghiệm địa ngục ngay ở đây trên trái đất, như chúng ta chứng kiến nhiều biến cố bi thảm trong kinh nghiệm cá nhân và tập thể của con người.
Trong Mùa Chay năm 2020 này, tôi muốn chia sẻ với mọi Kitô hữu những điều tôi đã viết cho các bạn trẻ trong Tông huấn Christus vivit – Đức Kitô sống: “Hãy chăm chú nhìn vào đôi tay dang rộng của Đức Kitô chịu đóng đinh, hãy cho phép mình được cứu, hết lần này đến lần khác, mãi mãi. Và khi các con đi xưng thú tội lỗi của mình, hãy vững tin vào lòng thương xót của Chúa, vốn có sức giải thoát các con khỏi ách tội lỗi. Hãy chiêm ngắm máu Người đổ ra với tình yêu lớn lao như thế, và hãy để cho mình được tẩy sạch bởi máu ấy. Bằng cách này, các con có thể được tái sinh không ngừng và luôn luôn mới mẻ” (số 123). Phục sinh của Chúa Giêsu không phải là một sự kiện của quá khứ; nhưng nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, nó luôn luôn hiện tại và cho phép chúng ta ngắm nhìn và bằng đức tin, chạm vào xác thịt của Chúa Kitô nơi những người đau khổ.
2. Sự cấp thiết hoán cải
Thật tốt khi chiêm ngắm cách sâu sắc hơn mầu nhiệm phục sinh mà qua đó lòng thương xót của Thiên Chúa được ban cho chúng ta. Thật vậy, kinh nghiệm về lòng thương xót chỉ có thể trong mối tương quan “diện đối diện” với Chúa bị đóng đinh và sống lại, “Đấng đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20), trong một cuộc đối thoại chân thành giữa những người bạn. Đó là lý do tại sao lời cầu nguyện rất quan trọng trong thời gian Mùa Chay. Thậm chí còn hơn là một nghĩa vụ, cầu nguyện diễn tả nhu cầu của chúng ta trong việc đáp lại tình yêu Thiên Chúa, vốn luôn đi bước trước và trợ giúp chúng ta. Kitô hữu cầu nguyện với ý thức rằng, dù không xứng đáng, chúng ta vẫn được yêu thương. Lời cầu nguyện có thể thực hiện dưới những hình thức khác nhau, nhưng điều thật sự có giá trị trong mắt Thiên Chúa chính là điều ẩn sâu bên trong chúng ta, bào mỏng sự cứng lòng của chúng ta, để hoán cải chúng ta quay về với Thiên Chúa và với thánh ý Ngài hoàn toàn hơn.
Do đó, trong thời gian thuận tiện này, chúng ta hãy để mình được hướng dẫn như Israel trong xa mạc (Hs 2,16), để cuối cùng chúng ta có thể nghe tiếng nói của vị Hôn phu của chúng ta và để nó vang vọng sâu sắc hơn trong chúng ta. Càng gắn bó với Lời Ngài, chúng ta càng cảm nghiệm hơn lòng thương xót Ngài ban cho chúng ta cách nhưng không. Chúng ta đừng để cho thời gian ân sủng này trôi qua cách vô ích, trong ảo tưởng khờ dại rằng chúng ta có thể kiểm soát thời gian và cách thế chúng ta hoán cải trở về với Ngài.
3. Ý muốn mãnh liệt của Thiên Chúa đối thoại với con cái Ngài
Việc Chúa một lần nữa cho chúng ta thời gian thuận tiện để hoán cải không bao giờ được xem là điều hiển nhiên. Cơ hội mới này phải khơi dậy nơi chúng ta ý thức biết ơn và đánh thức chúng ta từ sự mê ngủ của mình. Mặc dù đôi khi có sự hiện diện bi thảm của sự ác trong cuộc sống chúng ta, cũng như trong đời sống của Giáo hội và thế giới, cơ hội này được ban để chúng ta thay đổi cuộc sống cho thấy ý muốn nhân hậu của Thiên Chúa, không cắt ngang cuộc đối thoại cứu độ với chúng ta. Trong Chúa Kitô chịu đóng đinh, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (2 Cr 5,21), ý muốn cứu độ này đã khiến Chúa Cha đổ xuống trên Con của Ngài tất cả tội lỗi chúng ta, như cách diễn tả của Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI: “đặt Thiên Chúa chống lại Thiên Chúa”, (x. Deus caritas est, 12). Vì Thiên Chúa cũng yêu thương kẻ thù của Ngài (x. Mt 5,43-48).
Cuộc đối thoại mà Thiên Chúa muốn thiết lập với mỗi chúng ta qua mầu nhiệm Vượt qua của Con Ngài không giống như điều đã xảy ra với cư dân thành Athens, những người “chỉ để thời giờ bàn tán hay nghe những chuyện mới nhất. (Cv 17,21). Việc tán gẫu như vậy, được lôi kéo bởi sự tò mò trống rỗng và hời hợt, là đặc trưng cho tính thế gian của mọi thời đại; trong thời đại của chúng ta, nó cũng có thể dẫn đến việc sử dụng phương tiện truyền thông không đúng cách.
4. Một sự giàu có để chia sẻ, không để dành riêng cho mình
Đặt mầu nhiệm vượt qua ở trung tâm cuộc sống của chúng ta có nghĩa là cảm thấy trắc ẩn, thương cảm đối với vết thương của Chúa Kitô bị đóng đinh nơi nhiều nạn nhân vô tội của các cuộc chiến tranh, trong các cuộc tấn công vào sự sống, từ sự sống của người chưa được sinh ra đến sự sống của người già và các hình thức bạo lực khác nhau. Chúng cũng có trong các thảm họa môi trường, sự phân phối không đồng đều các tài nguyên của trái đất, nạn buôn người dưới mọi hình thức và ước muốn không cùng về lợi nhuận, một hình thức thờ ngẫu tượng.
Ngày nay cũng cần phải kêu gọi những người nam nữ có thiện chí chia sẻ, bằng cách chia sẻ của cải của họ với những người thiếu thốn, như một cách thế tham gia của cá nhân vào việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Việc chia sẻ bác ái giúp con người trở nên người hơn, trong khi việc tích trữ có nguy cơ làm xấu đi tính người, bị giam cầm bởi sự ích kỷ của chính mình. Chúng ta có thể và phải đi xa hơn nữa, và xem xét các khía cạnh cấu trúc của kinh tế. Vì lý do này, vào giữa Mùa Chay năm nay, từ 26 đến 28 tháng 3, tôi đã triệu tập một cuộc họp ở Assisi với các nhà kinh tế, doanh nhân trẻ và những người tạo ra thay đổi, với mục đích định hình một nền kinh tế công bằng và bao gồm hơn. Như giáo huấn của Giáo hội thường lặp đi lặp lại, đời sống chính trị đại diện cho một hình thức bác ái trổi vượt (x. Pius XI, Bài nói chuyện với liên đoàn sinh viên Đại học Công giáo Ý, 18 tháng 12 năm 1927). Điều tương tự cũng đúng đối với đời sống kinh tế, là điều có thể được tiếp cận với cùng tinh thần Tin Mừng, đó là tinh thần của các Mối Phúc.
Tôi cầu xin Mẹ Maria chí thánh cầu bầu để việc cử hành Mùa Chay của chúng ta giúp chúng ta mở trái tim để lắng nghe lời Thiên Chúa mời chúng ta hòa giải với Ngài, chiêm ngắm mầu nhiệm phục sinh và được hoán cải trước một cuộc đối thoại cởi mở và chân thành với Ngài. Bằng cách này, chúng ta sẽ trở nên như Chúa Kitô yêu cầu các môn đệ của Ngài: muối đất và ánh sáng thế gian (x. Mt 5,13-14).
Phanxicô, Giáo hoàng
Roma, tại Đền thờ thánh Gioan Laterano
Ngày 07/10/2019, lễ Đức Mẹ Mân Côi

Thứ Hai, 24 tháng 2, 2020

THƯ MỤC VỤ THÁNG 3/2020 GIÁO PHẬN LONG XUYÊN SỐNG MÀU NHIỆM THÁNH GIÁ CỦA CHÚA K

THƯ MỤC VỤ THÁNG 3/2020
GIÁO PHẬN LONG XUYÊN
SỐNG MÀU NHIỆM THÁNH GIÁ CỦA CHÚA KITÔ

Anh chị em thân mến!
Chúng ta đã bước vào Mùa Chay hướng về việc cử hành màu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô. Mùa Chay năm nay cũng là trong năm kỷ niệm 60 năm thành lập giáo phận. Vì thế, chủ đề của thư mục vụ tháng 3 là Kỷ niệm 60 năm thành lập, giáo phận Long Xuyên sống màu nhiệm Thánh Giá của Chúa Kitô.

Màu nhiệm đau khổ của con người. Trước hết, chúng ta cùng suy tư về màu nhiệm đau khổ của kiếp người khi chiêm niệm màu nhiệm Thánh Giá của Chúa Kitô trong một sinh hoạt đạo đức bình dân được quý trọng là năm (05) sự Thương của Kinh Mân Côi. Thứ nhất, Đức Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu (Mc 14, 32-42). Ở đây, màu nhiệm Thánh Giá là từ bỏ ý riêng để chọn ý Thiên Chúa. Tuy nhiên, sâu xa hơn và nặng nề hơn, là, trong cô đơn một mình và trong sợ hãi đến đổ mồ hôi máu, con người tìm Thánh Ý của một Vị Thiên Chúa Im Lặng. Thứ hai, Đức Chúa Giêsu chịu đánh đòn (Mc 15, 6-13). Đây là Thánh Giá đau khổ của một thân xác bị bầm dập, trở thành dị dạng (Is 52,14 ;53,2). Nhưng sâu xa hơn và nặng nề hơn là sự hoang mang về ý nghĩa của sự thân xác được sinh ra. Hoang mang đến mức độ, Ông Giop, với một thân xác đầy ung nhọt, đã nguyền rủa ngày thân xác được sinh ra (G 3,1-3). Thứ Ba, Đức Chúa Giêsu chịu đội mũ gai (Mc 15, 16-20)Đây là Thánh Giá bị sỉ nhục, bị kết án, bị loại trừ, bị coi là kẻ thua cuộc, trở thành trò cười trong các tương quan. Nhưng sâu xa hơn và nặng nề hơn là thái độ vừa chấp nhận sự phũ phàng, vừa quảng đại tha thứ và hơn nữa còn biện hộ cho những xúc phạm đó (Lc 23, 34). Thứ Tư, Đức Chúa Giêsu vác Thánh Giá (Mc 15, 21-22). Ở đây, Thánh Giá là những gánh nặng từ bổn phận và trách nhiệm từ ơn gọi và sứ vụ. Tuy nhiên, nặng nề hơn và khó khăn hơn, là trách nhiệm đối với một tập thể đặt trên một cá nhân đầy giới hạn, là công trình của Thiên Chúa đè trên sự mỏng manh của kiếp người, và nhất là, là vuợt thắng chính mình để không bỏ cuộc tiến về phía trước. Thứ Năm, Đức Chúa Giêsu chịu chết trên Thánh Giá (Mc 15, 33-39). Đây là Thánh Giá của thân phận con người đối diện với bốn sự sau, là sự chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Nhưng, sâu xa và nặng nề hơn, là sự khủng hoảng niềm tin. Đối diện với đau khổ và cái chết, con người đặt những câu hỏi về Thiên Chúa, như: Có Thiên Chúa không? Sao Thiên Chúa im lặng? Thiên Chúa đang ở đâu? Chính Chúa Giêsu trong giờ hấp hối trên Thánh Giá đã thốt lên: “Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27, 46).

Nguyên tổ loàn người vui hưởng hạnh phúc địa đàng nhưng bất tuân ý Thiên Chúa nên có đau khổ và chết. Còn Chúa Giêsu, Ngài chấp nhận đau khổ và chết trên Thánh Giá tại trần gian nhưng vâng phục để cứu chuộc và dem lại hạnh phúc nước trời cho con người.

Con đường Thánh Giá trong lịch sử giáo phận Long Xuyên. Từ những suy nghĩ về màu nhiệm Thánh Giá trên, chúng ta nhìn vào lịch sử của Giáo phận Long Xuyên. Trên 350 năm trước khi được thành lập, giáo phận đã được in dấu bởi các vị thừa sai và các bậc tiền bối. Dấn thân vào vùng đất này để loan báo Tin Mừng, các ngài chấp nhận con đường Thánh Giá của Chúa Kitô và đã cắm được Thánh Giá của Chúa trên phần đất này. Cụ thể và điển hình là Thánh Linh mục Phêrô Đoàn Công Quý và Thánh Giáo dân Emmanuel Lê Văn Phụng đã đi trọn con đường Thánh Giá bằng cuộc tử đạo trên phần đất của giáo phận Long Xuyên tại Châu Đốc. Thật là ý nghĩa khi ngày giáo phận được thành lập cũng là ngày kính trọng thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam, ngày 24/11 hàng năm. Chúng ta trân trọng và tự hào về các vị tiền bối anh hùng.

Trong lịch sử 60 năm từ ngày thành lập,  giáo phận được xây dựng, được củng cố và phát triển từ những cuộc đời đầy Thánh Giá của các Giám mục, các Linh mục, các Tu sĩ, và Giáo dân cũng như của nhiều người thành tâm thiện chí trên phần đất Long Xuyên. Giáo phận Long Xuyên ngày nay là di sản được chuyển giao lại cho chúng ta, được điển hình là tháp Nhà Thờ Chính Tòa như đôi tay nắm chặt cây Thánh Giá vươn cao giữa bầu trời của thành phố Long Xuyên. Chúng ta hết lòng tri ân các bậc tiền bối trong lịch sử giáo phận.

Ngày nay, trên đường tiếp tục thi hành sứ vụ của Chúa Kitô trên phần đất Long Xuyên, Giáo phận vẫn đối diện với nhiều thách đố với nhiều thời cơ mà cũng không thiếu những nguy cơ, làm nên cuộc hành trình Thánh Giá của giáo phận. Đó là Thánh Giá Thánh Thiêng lội ngược dòng giữa trần gian thế tục: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17, 14-16). Đó là Thánh Giá chiến thắng sự ích kỷ cá nhân để quảng đại phục vụ tha nhân và xây dựng công đoàn: “Ta là Chúa là Thày mà còn rửa chân cho anh em, anh em cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Đó là Thánh Giá chiến đấu với sự biếng lười thiêng liêng để ra đi vùng ngoại biên vì sứ vụ loan báo Tin Mừng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15).

Gương mẫu của Chúa Kitô. Giáo phận Long Xuyên được đề nghị học hỏi cách sống màu nhiệm Thánh Giá cũng từ một sinh hoạt đạo đức bình dân truyền thống từ xa xưa, nhưng vẫn còn được nhiều cộng đoàn tín hữu thực hiện, đặc biệt là trong mùa chay, đó là suy niệm Chặng Đàng Thánh Giá. Chúng ta có thể học được 3 bài học từ Chặng Đàng Thánh Giá:

Bài học thứ nhất là sự quyết tâm đi trọn con đường Thánh Giá. Chúa Kitô với cây Thánh Giá trên vai đã ngã xuống đất 3 lần nhưng đã không bỏ cuộc. Ngài xác tín: Đời ngài là một hành trình từ Belem lên đồi Calvario để chịu khổ nạn và Ngài đã đi đến cùng.

Bài học thứ hai là sự tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Trong đau khổ tột cùng ngài cầu nguyện “Lạy cha con phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 24, 46). Đó cũng là sự tin tưởng vào lòng tốt của tha nhân.  Chúa Giêsu đã trân trọng và khiêm tốn đón nhận lòng tốt của Mẹ Maria và tông đồ Gioan, của ông Simong và bà Veronica, của ông Nicodemo và ông Giuse…trên con đường Thánh Giá của mình.

Bài học thứ ba là lấy tình yêu làm sức mạnh và là cùng đích cho cuộc hành trình vác Thánh Giá.  Là sức mạnh vì “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của ngườiđã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13) . Là cùng đích vì Thiên Chúa là Tình Yêu. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 4, 16).

Chương trình tu đức mục vụ và loan báo tin mừng Mùa Chay Thánh. Với những ý tưởng trên, chúng ta được đề nghị thực hiện những sinh hoạt sau đây:

1/ Tích cực và sốt sắngTham dự các sinh hoạt đặc trưng của mùa Chay như suy gẫm Sự Thương Khó Chúa (Ngắm Đứng, Lễ Đèn), Lần chuổi Mân Côi Năm Sự Thương, Đi Chặng Đàng Thánh Giá, Lần Chuỗi Lòng Thương Xót Chúa …

2/ Nhiệt tình sống cuộc Thương Khó của Chúa trong cuộc đời của ta, cá nhân, gia đình, cộng đoàn giáo hội và xã hội. Đó là những hy sinh, chấp nhận mình chịu thiệt thòi về vật chất, về sức khỏe, về tinh thần, cả về danh dự…, để cho tha nhân được hạnh phúc hơn và để cho cộng đoàn được hiệp nhất và bình an.

3/ Sẵn sàng trở thành các ông Simong, bà Veronica, ông Nicođemô…để chăm sóc Chúa Kitô đang hiện thân nơi những người đau khổ trong cộng đoàn ta, đặc biệt là các bênh nhân, những người già cả liệt lào,  các trẻ em mồ côi, các người khuyết tật, những người hấp hối…

Tất cả những sinh hoạt trên là những thiện chí của giáo phận, sẽ trở thành của lễ thiêng liêng kết hợp với chính Chúa Giêsu trên Thánh Giá để dâng lên Thiên Chúa trong các Thánh Lễ được cử hành trên bàn thờ, và xin Chúa chúc lành cho gia đình giáo phận được tiếp tục sống màu nhiệm Thánh Giá của Chúa Kitô.

Cách riêng, tháng Ba, kính Thánh Giuse, chúng ta xin với Thánh Giuse gìn giữ gia đình giáo phận Long Xuyên được bình an và hiệp nhất. Đặc biệt chúng ta cầu nguyện cho các vị có trách nhiệm trong cộng đoàn gia đình, giáo xứ, giáo phận… được noi gương thánh Giuse biết chấp nhận Thành Giá bằng sự hy sinh phục vụ cộng đoàn trong âm thầm và khiêm tốn.

Xin Chúa Kitô trên Thánh Giá chúc phúc cho mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận

Giuse Trần Văn Toản 
Giám mục giáo phận Long Xuyên

Thánh lễ ĐTC Phanxicô tại Bari: sự cực đoan của tình yêu

Thánh lễ ĐTC Phanxicô tại Bari: sự cực đoan của tình yêu

Văn Yên, SJ - Vatican News
Đức Thánh Cha đã dâng Thánh Lễ Chúa Nhật thứ Bảy thường niên. Khởi đầu bài giảng, Đức Thánh Cha trích từ bài đọc của ngày, Tin Mừng theo thánh Matthêu 5,38-48. 
Bài giảng Thánh Lễ 
Chúa Giêsu đã trích dẫn luật xưa về việc “mắt đền mắt, răng đền răng”, để thấy rằng: ai lấy của anh cái gì thì anh lấy lại của anh ta cái đó. Đây là một tiến bộ để người ta không đáp trả người làm tổn thương mình bằng một hành động tồi tệ hơn. Tuy nhiên, Chúa Giêsu còn đi một bước xa hơn: “Còn Thầy, Thầy bảo rằng đừng chống cự người ác” (Mt 5,39).
Đức Thánh Cha tự đặt câu hỏi: Mà lạy Chúa, làm thế nào được? Nếu một ai đó nghĩ xấu về con, nếu ai đó làm tổn thương con, con không thể trả lại bằng chính hành động đó sao? “Không”, Chúa Giêsu nói rằng: không bạo lực.
Chúng ta có thể nghĩ giáo huấn của Chúa Giêsu để theo đuổi một chiến lược: cuối cùng kẻ ác sẽ từ bỏ thôi. Nhưng đây không phải là lý do khiến Chúa Giêsu đòi phải yêu ngay cả kẻ làm hại mình. Lý do của Ngài là: Chúa Cha, Cha chúng ta, luôn yêu thương mọi người, ngay cả khi không được đáp lại. Ngài “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” (c. 45). Và hôm nay, trong Bài đọc 1, Ngài nói với chúng ta: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh!” (Lv 19,2).
Do đó, nếu chúng ta muốn trở thành môn đệ của Chúa Kitô, nếu chúng ta muốn gọi mình là Kitô hữu, thì đây chính là con đường, không có con đường khác. Được Chúa yêu, chúng ta cũng được mời gọi yêu; được tha thứ, chúng ta được mời gọi thứ tha; được đụng chạm bởi tình yêu, chúng ta được mời gọi trao tình yêu mà không chờ người khác bắt đầu.
Chúng ta có thể nói: “Chúa Giêsu cường điệu khi nói: ‘Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ anh em’ (Mt 5,44); Ngài nói như thế để khơi nên sự chú ý thôi, nhưng có lẽ Ngài không thực sự có ý đó.” Ngược lại, Ngài muốn nói như vậy. Ở đây Chúa Giêsu không nói để tạo nên nghịch lý, Ngài không chơi chữ. Ngài nói trực tiếp và rõ ràng. Ngài trích dẫn luật xưa và long trọng nói: “Còn Thầy, Thầy nói với anh em: hãy yêu kẻ thù”. Đây là những lời chủ ý và chính xác.
Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bách hại anh em. Đó là sự mới mẻ Kitô giáo. Đó là sự khác biệt Kitô giáo. Cầu nguyện và yêu thương là những gì chúng ta phải làm; và không chỉ với những người yêu thương chúng ta, không chỉ với bạn bè hay dân tộc của chúng ta. Bởi vì tình yêu của Chúa Giêsu không có ranh giới. Chúa yêu cầu chúng ta can đảm với một tình yêu không tính toán. Đã bao lần chúng ta bỏ qua lời yêu cầu của Ngài, hành động như mọi người khác! Mệnh lệnh yêu thương không phải đơn giản là một sự hô hào, nhưng là cốt lõi của Tin Mừng. Chúa đòi chúng ta sự cực đoan của tình yêu. Điều cực đoan Kitô giáo duy nhất hợp lệ là sự cực đoan của tình yêu.
Anh em hãy yêu kẻ thù. Chúng ta tự hỏi: Tôi bận tâm về điều gì trong cuộc sống: về kẻ thù, về người tôi muốn xử xấu với họ? Hay về việc yêu? Đừng bận tâm về sự xấu xa của người khác, của những người nghĩ xấu về bạn. Thay vào đó, hãy bắt đầu bỏ vũ khí nơi trái tim vì tình yêu Chúa Giêsu. Bởi vì bất cứ ai yêu Chúa đều không có kẻ thù trong lòng. Thờ phượng Thiên Chúa là đối nghịch với văn hóa thù hận.
Chúa Giêsu biết nhiều điều không ổn, Ngài biết rằng sẽ luôn có một ai đó muốn điều xấu cho chúng ta, thậm chí bách hại chúng ta. Nhưng Ngài chỉ yêu cầu chúng ta cầu nguyện và yêu thương. Đây là cuộc cách mạng của Chúa Giêsu, vĩ đại nhất trong lịch sử. Nếu chúng ta thuộc về Chúa Giêsu, thì đây là con đường, không có con đường khác.
Nhưng bạn có thể phản đối: “Tôi hiểu sự vĩ đại của điều lý tưởng, nhưng cuộc sống là chuyện khác! Nếu tôi yêu và tha thứ, tôi không tồn tại nỗi trong thế giới này, nơi logic của sức mạnh chiếm ưu thế và dường như mọi người chỉ nghĩ cho mình”. Do đó, logic của Chúa Giêsu là một kẻ thua cuộc? Là kẻ thua cuộc trong mắt thế gian, nhưng là người chiến thắng trong mắt Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã nói với chúng ta trong bài đọc thứ hai: “Đừng ai lừa dối mình. Vì sự khôn ngoan của thế gian này là sự dại dột trước mặt Thiên Chúa” (1Cr 3,18-19). Chúa thấy xa hơn, Ngài biết chiến thắng thế nào. Ngài biết chỉ có thể chiến thắng cái ác bằng cái thiện. Ngài đã cứu chúng ta không phải bằng gươm giáo, nhưng bằng thánh giá. Yêu thương và tha thứ là sống như người chiến thắng.
Chúng ta sẽ thua nếu bảo vệ đức tin bằng vũ lực. Chúa cũng sẽ lặp lại với chúng ta những lời mà Ngài nói với Phêrô trong vườn Gethsemani: “Bỏ gươm lại vào vỏ” (Ga 18,11). Nơi những Gethsemani ngày nay, nơi thế giới thờ ơ và bất công, Kitô hữu không thể làm như những môn đệ, những người đầu tiên cầm gươm rồi sau đó chạy trốn. Không, giải pháp không phải là rút gươm chống lại ai đó và thậm chí cũng không phải là chạy trốn khỏi thời đại mà chúng ta sống. Nhưng giải pháp là con đường của Chúa Giêsu: tình yêu tích cực, tình yêu khiêm nhường, tình yêu “đến cùng” (Ga 13,1).
Chúng ta có thể tự hỏi: “chúng ta có làm được không?”. Nếu mục đích là không thể, thì Chúa đã không yêu cầu chúng ta đạt đến. Chúng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh để yêu thương, hãy nói với Ngài: “Lạy Chúa, xin giúp con yêu thương, và dạy con tha thứ. Con không thể làm điều đó một mình, con cần Chúa.”
Chúng ta rất thường xin giúp đỡ và tạ ơn vì chúng ta, nhưng chúng ta ít xin để biết cách yêu! Như lời của thánh Gioan Thánh Giá: “Vào lúc chiều tối của cuộc đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu” (Thánh Gioan Thánh Giá, Lời của ánh sáng và tình yêu, 57). Hôm nay chúng ta chọn tình yêu, ngay cả phải trả giá, ngay cả lội ngược dòng.
Kinh Truyền Tin sau Thánh Lễ
Kết thúc Thánh Lễ, Đức Thánh Cha cùng đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu. Trước khi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha kêu gọi:
Anh chị em thân mến, trong khi chúng ta đang tụ họp nơi đây để cầu nguyện và suy ngẫm về hòa bình và số phận của các dân tộc vùng Địa Trung Hải, thì ở phía bên kia biển, đặc biệt phía tây bắc Syria, một thảm kịch mênh mông đang diễn ra. Từ trái tim của các mục tử, tiếng kêu được gióng lên đối với các thành phần liên quan và với cộng đồng quốc tế, để làm im đi tiếng ầm ĩ của vũ khí và để lắng nghe tiếng khóc của những trẻ thơ và những người không được bảo vệ; để bảo vệ cuộc sống của thường dân và nhiều trẻ em vô tội hiện đang gánh chịu hậu quả của chiến tranh.

Thứ Năm, 20 tháng 2, 2020

Một giáo hoàng một bước đi tới, hai bước đi lui?

Một giáo hoàng một bước đi tới, hai bước đi lui?





Giáo hội công giáo sẽ không phong chức linh mục cho các ông đã lập gia đình cũng như không mở đường cho phụ nữ phó tế ít nhất là dưới triều giáo hoàng Đức Phanxicô. Nói về hai chủ đề này, chắc chắn Thượng hội đồng Amazon là một thất vọng. Bao nhiêu là ồn ào, bao nhiêu là tranh luận, bao nhiêu là ‘hồi hộp sai-đúng’ để rồi cuối cùng Thượng hội đồng Amazon nói với chúng ta về các dân tộc bản địa, về việc khẩn cấp phải can thiệp vào môi sinh và tôn trọng các nền văn hóa? Vậy chẳng có gì là nghiêm trọng! Người ta không làm phiền các nhà báo chỉ để thảo luận về hội nhập văn hóa hoặc truyền giáo! Vậy điều gì xảy ra với Đức Phanxicô, một giáo hoàng Dòng Tên có vẻ rất hiện đại này? Cuối cùng ngài cũng chỉ khoác áo của nhà bảo thủ thôi sao? Ngài cũng đã chống phá thai…
Nhưng Thượng hội đồng Amazon không phải chỉ là “thượng hội đồng của truyền thông”, nhưng một thượng hội đồng thật mà giáo hoàng dường như bỏ qua các đề nghị. Ý nghĩ đầu tiên đến trong tâm trí là so sánh Tông huấn này với với thông điệp của Đức Phaolô-VI lên án viên thuốc ngừa thai. Một số người sẽ nhìn thấy ở Tông huấn Amazon yêu quý ‘Querida Amazonia’ những gì họ đã thấy trong Thông điệp Sự sống Con người ‘Humanae vitae’ được Đức Phaolô-VI ban hành năm 1968: một cơ hội bị hụt để đáp ứng cho các mong chờ của thời đại, một phản xạ của sự sợ hãi, một giáo hoàng chống các nguyên tắc mà chính các tín hữu không phải lúc nào cũng có thể hiểu. Sự thất vọng có thể ở các nước phương Tây mạnh hơn là các nước liên hệ, nơi Giáo hội phải đối diện với nhiều tình huống khẩn cấp về vật chất cũng như tinh thần, mà văn bản của giáo hoàng đã đáp ứng mạnh. Còn các người khác, thường họ cũng ở các quốc gia châu Âu, Mỹ châu, họ tin chắc mình đã đẩy lui giáo hoàng mà họ ghét, đến mức họ đưa ra tranh cãi về thẩm quyền, về tính hợp pháp, về công giáo tính của ngài.
Bản tổng kết tạm thời: một lộn xộn nào đó. Khi khuyến khích tranh luận về hai chủ đề gây tranh cãi này, thậm chí lúc đứng phía này lúc đứng phía kia, Đức Phanxicô đã bắt cầu cho những người không bao giờ đi lễ, hoặc những người ghét Giáo hội công giáo la-mã cho phép mình lên tiếng khuyên ngài những lời khuyên êm tai. Ngài đã cho người công giáo một lý do tuyệt vời để tấn công ngài, và tấn công ác liệt! Ngài cho những người tiến bộ nhất cơ hội để có ảo tưởng hy vọng cho một thay đổi tận gốc và bất ngờ. Ngài không thể giả vờ ngạc nhiên về tầm quan trọng của vấn đề này, và ngài cũng không thể mong đợi bản tông huấn của mình được đón nhận trọn vẹn. Ngài cũng không thể nghĩ rằng việc không-trả lời sẽ đủ để hòa giải người công giáo bị chia rẽ, để an ủi các linh mục bị mất tinh thần hoặc đưa ra động lực mới cho một triều giáo hoàng có phần bị sa lầy. Cuối cùng, sẽ là sai lầm khi nghĩ một Giáo hội trong đó quyền lực chỉ độc quyền dành cho nam giới và phục vụ thường là nữ giới, lại có thể vĩnh viễn làm hài lòng trong vấn đề phục vụ của các phụ nữ trong các triều giáo hoàng như sau, tôi trích một câu trong tông huấn: “Phụ nữ đóng góp cho Giáo hội một cách cụ thể và bằng cách nối dài sức mạnh và sự dịu dàng của Đức Maria, người Mẹ.” Vấn đề phụ nữ phó tế quan trọng hơn nhiều so với các lời sáo rỗng này.
Nhưng thực chất tất cả mọi chuyện đều được cân nhắc đúng và ở thời điểm chúng ta đang ở, giáo hoàng đã lật qua một trang. Giữa nguy cơ của một ly giáo và rủi ro của một nổ bùng như tiếng nổ của các chai nước có hơi (pschitt), chắc chắn ngài chọn cái ít tệ hơn. Quyết định đúng-sai của ngài về việc phong chức cho các ông đã lập gia đình, theo sự vượt lên khỏi biện chứng và phong thái Dòng Tên thầm lặng, phản ánh càng ít càng tốt tình trạng của một Giáo hội la-mã không có khả năng quyết định mà không bị xâu xé. Trên hết, Đức Phanxicô chưa bao giờ nhất quán với chính mình như khi ngài nhắc lại, sự cấp bách thực sự đối với Giáo hội là sự giải tập trung trong việc truyền giáo, chứ không cấp bách trong việc cấu trúc các bộ. Đó là thông điệp mạnh mẽ nhất của ngài, một thông điệp sẽ còn lưu lại cho giáo triều của ngài.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch (phanxico.vn)

Người hiền lành không phải là người yếu đuối, hèn nhát

ĐTC Phanxicô: Người hiền lành không phải là người yếu đuối, hèn nhát

Đức Thánh Cha nhắc rằng sự giận dữ hủy hoại phá hủy nhiều thứ; ngược lại, sự hiền lành đạt được nhiều điều. Người hiền lành thu phục nhân tâm, cứu vãn tình bạn, bảo vệ tương quan với Thiên Chúa. Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu học theo gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Hồng Thủy - Vatican
Sáng thứ Tư 19/02, Đức Thánh Cha đã có buổi tiếp kiến chung dành cho gần 8000 tín hữu hiện diện trong đại thính đường Phaolô VI, trong đó có một nhóm tín hữu đến từ Việt Nam. Bắt đầu buổi tiếp kiến, các tín hữu hiện diện nghe đoạn Kinh Thánh trích từ Thánh vịnh 37, 3.8-11: Cứ tin tưởng vào CHÚA và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Dừng cơn phẫn nộ và chớ mãi nổi xung, đừng nổi giận kẻo sinh ra tội lỗi, vì bọn gian ác sẽ bị diệt trừ, còn người trông đợi CHÚA, sẽ được đất hứa làm gia nghiệp. Ít lâu nữa ác nhân sẽ chẳng còn, đến chỗ xưa cũng không tìm thấy hắn. Còn kẻ nghèo hèn được đất hứa làm gia nghiệp và vui hưởng cảnh an lạc chan hoà.
Với đoạn Thánh vịnh trên, Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý giải thích về Mối Phúc thứ ba: “Phúc cho ai hiền lành, vì họ sẽ được đất làm sản nghiệp.” (Mt,5,5). Người hiền lành là người bình tĩnh, đơn giản, nhẹ nhàng, vâng phục và hòa bình, đối xử tốt với người khác và không cãi vã với ai, được người khác quý mến và chiến thắng sự giận dữ. Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu học theo sự hiền lành của Chúa Giêsu và nhắc nhở rằng miền đất mà chúng ta cần được thừa hưởng chính là ơn cứu độ của anh chị em, trái tim, tình thân ái, mà chúng ta có thể đạt được với sự hiền lành.
Nếu bị tấn công, xúc phạm, chúng ta có cư xử hiền lành không?
Bắt đầu bài giáo lý, Đức Thánh Cha giải thích từ “hiền lành”. Ngài nói: Từ “hiền lành” được sử dụng ở đây có nghĩa đen là ngọt ngào, dịu dàng, lịch sự, không có bạo lực. Sự hiền dịu được thể hiện trong những khoảnh khắc xung đột, nó được nhìn thấy qua cách người ta phản ứng trước một tình huống thù địch. Bất cứ ai cũng có vẻ ôn hòa khi mọi thứ đều thanh bình, nhưng người ta phản ứng thế nào khi ở "dưới áp lực", nếu bị tấn công, bị xúc phạm, bị xâm hại?
Trong đoạn thư gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô nhắc lại “sự nhân từ và khoan dung của Chúa Kitô” (2 Cr 10,1). Còn thánh Phêrô thì nhắc lại thái độ của Chúa Giêsu trong cuộc Thương Khó: Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bằng” (1 Pr 2,23). Sự hiền lành của Chúa Giêsu được chứng tỏ rõ ràng trong cuộc Thương Khó.
Người hiền lành được “thừa hưởng” đất đai – trời mới đất mới
Đức Thánh Cha nhận xét: trong Kinh Thánh, từ “hiền lành” cũng nói đến người không có sản nghiệp đất đai; và do đó điều khiến chúng ta ngạc nhiên là Mối Phúc thứ ba nói rõ rằng những người hiền lành “sẽ được đất làm sản nghiệp.”
Trong thực tế, Mối Phúc này trưng dẫn Thánh vịnh 37 mà chúng ta nghe khi bắt đầu bài giáo lý. Ngay cả Thánh vịnh đó cũng cho thấy tương quan giữa sự hiền lành và sở hữu đất đai. Hai điều này, khi chúng ta suy nghĩ về nó, dường như không tương thích. Thực tế là, sở hữu đất đai là môi trường xung đột điển hình: người ta thường chiến đấu vì một lãnh thổ, để giành quyền bá chủ trên một khu vực nhất định. Trong các cuộc chiến, người mạnh nhất chiếm ưu thế và chinh phục các vùng đất khác.
Tiếp tục bài giáo lý, Đức Thánh Cha nói: Nhưng chúng ta hãy xem xét kỹ động từ được sử dụng để chỉ sự sở hữu của những người hiền lành: họ không chinh phục đất đai, nhưng "thừa hưởng" nó. Trong Kinh Thánh, động từ “thừa hưởng" có nghĩa sâu hơn. Dân Chúa xem vùng đất của Israel, Đất Hứa, là tài sản thừa kế. Miền đất đó là một lời hứa và một món quà dành cho Dân của Thiên Chúa, và trở thành dấu chỉ của một điều lớn lao và sâu sắc hơn là một lãnh thổ đơn giản. Có một “miền đất” – theo cách chơi chữ - là Nước Trời, là miền đất mà chúng ta hành trình hướng về đó: trời mới và đất mới chúng ta đang đi đến (x. Is 65,17; 66,22; 2 Pr 3,13; Kh 21,1).
Người hiền lành không hèn nhát, yếu đuối
Do đó, người hiền lành là người "thừa hưởng" điều lớn lao nhất của các lãnh thổ. Họ không phải là kẻ hèn nhát, "kẻ yếu đuối", người tìm thấy một đạo đức thu mình lại để tránh xa rắc rối. Hoàn toàn khác hẳn! Họ là người đã nhận được một gia tài và không muốn phân tán nó. Người hiền lành là môn đệ của Chúa Kitô, người đã học cách bảo vệ một miền đất khác. Họ bảo vệ sự bình an của mình, bảo vệ mối quan hệ của mình với Thiên Chúa và bảo vệ những ơn sủng của Ngài, giữ gìn lòng thương xót, tình huynh đệ, niềm tin, hy vọng. Bởi vì những người hiền lành là những người có lòng thương xót, có tình huynh đệ, tin tưởng và là những người có niềm hy vọng.
Hiền lành quy tụ, còn giận dữ chia cách
Đức Thánh Cha nhắc đến tội tức giận: Ở đây chúng ta phải đề cập đến tội tức giận, một phong trào bạo lực mà tất cả chúng ta đều biết động lực của nó. Ai không có đôi lần tức giận? Tất cả đều có. Chúng ta phải đảo ngược Mối Phúc và tự hỏi mình một câu hỏi: với sự tức giận, chúng ta đã phá hủy bao nhiêu thứ? Chúng ta đã mất bao nhiêu thứ? Một khoảnh khắc tức giận có thể phá hủy nhiều thứ; bạn mất kiểm soát và không đánh giá điều gì thực sự quan trọng và bạn có thể phá hỏng mối quan hệ với một người anh em, đôi khi không thể chữa lành được. Vì giận dữ, nhiều anh em không nói chuyện với nhau nữa, họ xa cách nhau. Sự hiền lành quy tụ, còn giận dữ chia cách.
Hiền lành xây dựng tình thân, chiếm được trái tim người khác
Ngược lại, người hiền lành chinh phục nhiều thứ. Sự hiền lành có khả năng chiến thắng trái tim, cứu vãn tình bạn và nhiều hơn thế nữa, bởi vì những người tức giận nhưng sau đó bình tĩnh lại, suy nghĩ lại và hối hận, và như thế, với sự hiện lành, nó có thể được xây dựng lại.
Miền đất đẹp nhất cần được chinh phục
"Vùng đất" cần chinh phục với sự hiền lành chính là ơn cứu độ của người anh em mà Tin Mừng thánh Mátthêu nói đến: "Nếu người anh em của bạn lắng nghe bạn, bạn sẽ có được người anh em của mình" (Mt 18,15). Không có vùng đất nào đẹp hơn trái tim của người khác; không có lãnh thổ nào đẹp hơn cần thu được được hơn là sự bình yên tìm thấy với một người anh em. Đó là mảnh đất cần thừa kế với sự hiền lành!


Thứ Ba, 18 tháng 2, 2020

THÔNG BÁO CỦA TOÀ GIÁM MỤC LONG XUYÊN VỀ SINH HOẠT MỤC VỤ TRONG TÌNH HÌNH BỆNH DỊCH COVID-19

THÔNG BÁO CỦA TOÀ GIÁM MỤC LONG XUYÊN
VỀ SINH HOẠT MỤC VỤ TRONG TÌNH HÌNH BỆNH DỊCH COVID-19

Kính thưa quí cha, quí tu sĩ và ông bà anh chị em,
Trong những tuần qua, cả thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang phải đối phó với bệnh dịch Covid-19. Trong tinh thần bác ái, chia sẻ vui buồn, lo âu với mọi người, nhất là những người mắc bệnh, chúng ta cùng nhau làm những việc sau:

I. Cầu nguyện

Cầu nguyện tại nhà thờ và tư gia cho bệnh dịch sớm có thuốc điều trị và sớm chấm dứt, cầu cho những người mắc bệnh được quan tâm, săn sóc, chữa trị và mau khỏi bệnh, đồng thời cầu cho những người đã qua đời vì bệnh dịch được ơn cứu độ, bằng việc tham dự thánh lễ, Lần Hạt Mân Côi, Lần Chuỗi Lòng Thương Xót Chúa, Đi Chặng Đàng Thánh Giá…, nhất là làm việc bác ái và dâng những hi sinh cho Chúa.

II. Tích cực phòng chống bệnh dịch lây lan bằng những việc làm sau:

1. Thánh lễ
- Cử hành thánh lễ Chúa nhật và ngày trong tuần như thường lệ, nhưng nên ngắn gọn.
- Rước lễ trên tay, không rước lễ trên miệng.
- Có thể đeo khẩu trang khi dự lễ, nhất là những nơi có nguy cơ nhiễm bệnh.
- Những người có biểu hiện không tốt về sức khoẻ như sốt, ho, … được phép không tham dự thánh lễ Chúa nhật mà không có tội, nhưng nên làm việc lành phúc đức bù lại như lần hạt, việc bác ái …

2. Các cử hành khác
- Hôn phối: Tổ chức đơn giản; nếu được, nên cử hành riêng thay vì với cộng đoàn giáo xứ.
- An táng: Có thể cử hành tại tư gia.
- Giải tội: nên dùng toà giải tội có màn vải che; nếu cần, có thể đeo khẩu trang.
- Chầu lượt: nên hạn chế trong nội bộ giáo xứ, không mời các nơi khác.

3. Tạm dừng các sinh hoạt mục vụ sau trong thời gian dịch bệnh:
- Đặt viên đá, khánh thành nhà thờ.
- Các lớp giáo lý
- Các sinh hoạt đoàn thể, giới.
- Các cuộc hành hương đông người.
- Các lễ hội và liên hoan (kỷ niệm chịu chức, khấn dòng, bổn mạng, …)

Trong niềm phó thác và qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, thánh cả Giuse và các thánh, chúng ta dâng cho Chúa tất cả mọi việc chúng ta làm; xin Chúa thương thánh hoá và chúc lành.

Long Xuyên,  ngày 17 tháng 02 năm 2020
    Văn phòng Toà Giám Mục Long Xuyên

Phêrô Nguyễn Văn Kiệt
 Linh mục Chưởng Ấn

Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2020

Thông Báo Về Lễ Giỗ cha Fx. Trương Bửu Diệp Năm 2020

Thông Báo Về Lễ Giỗ cha Fx. Trương Bửu Diệp Năm 2020





Kính thưa quý cha, quý tu sĩ và Bạn đọc,
Tòa Giám mục giáo phận Long Xuyên xin thông báo:

Lễ Giỗ lần thứ 74 của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp vào những ngày 11-12 tháng 03 năm 2020 sắp tới tại Trung tâm Hành hương Tắc Sậy, Cần Thơ sẽ bị hủy bỏ. 

Giáo xứ Cồn Phước, thuộc giáo phận Long Xuyên cũng không tổ chức Lễ Giỗ lần thứ 74 của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp

Văn phòng Tòa Giám mục Long Xuyên

Phêrô Nguyễn Văn Kiệt
Linh mục Chưởng Ấn


Thứ Năm, 13 tháng 2, 2020

Không có "ông tổ duy nhất" của Chữ Quốc Ngữ

Không có "ông tổ duy nhất" của Chữ Quốc Ngữ




  •  
Thời gian qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng thảo luận rất nhiều quanh việc có nên lấy tên hai vị Linh mục Tây phương có công sáng tạo chữ Quốc ngữ đặt tên đường tại TP Đà Nẵng hay không. Liên quan đến nội dung này, nhiều người trong đó có cả các nhà nghiên cứu đã gắn cụm từ ông tổ chữ Quốc ngữ cho Alexandre de Rhodes hoặc Francisco de Pina. Đáng chú ý, trong các tham luận hội thảo và diễn đàn về lịch sử chữ Quốc ngữ gần đây tại Bồ Đào Nha, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, Linh mục Tiến sĩ Roland Jacques đều khẳng định: Francisco de Pina là ông tổ chữ Quốc ngữ.

1. Xác định khái niệm "ông tổ"

- Theo từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh Paulus Của, Tổ: Ông đầu hết; Ông truyền nghề nghiệp.

- Theo Đại từ điển Tiếng Việt, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Văn Hóa-Thông Tin, 1998, Tổ: Người được coi là người đầu tiên lập nên dòng họ; Người sáng lập, gây dựng nên một nghề, một ngành hay một học phái, tôn giáo.

Với khái niệm trên thì ông tổ chữ Quốc ngữ là người đầu hết, là người sáng lập, gây dựng nên chữ Quốc ngữ.

2. Việc sáng tạo chữ Quốc ngữ

Vào nữa đầu thế kỷ 17, các thừa sai Dòng Tên từ Macao đã đến Đàng Trong (18.01.1615) và Đàng Ngoài (19.03.1627) của Đại Việt để truyền giáo. Vì nhu cầu truyền giáo, các vị thừa sai đã dùng mẫu tự gốc Latinh để ký âm tiếng Việt. Trong bài này chúng tôi chỉ đề cập đến giai đoạn 1615-1651.
[1] Khởi đầu công việc nầy là các vị thừa sai đầu tiên đến Đàng Trong đã để lại dấu ấn liên quan đến việc sáng tạo chữ Quốc ngữ trong các tư liệu truyền giáo:

Linh mục Francesco Buzomi đến Đàng Trong năm 1615

Ngày 18.01.1615, đoàn thừa sai dòng Tên do Linh mục Buzomi làm trưởng đoàn đã đặt chân lên Cửa Hàn (Đà Nẵng). Tháng 7 năm 1618, nhờ sự giúp đỡ của Khám lý Qui Nhơn, cư sở đầu tiên của các thừa sai được thành lập tại Nước Mặn. Lúc bấy giờ tại cư sở này có các Kitô hữu: Linh mục Buzomi (Ý), Linh mục Pina (Bồ), Linh mục Borri (Ý), tu huynh Diaz (Bồ) và chú Augustinô (Việt).

Trong năm 1618, tại cư sở Nước Mặn, một thanh niên mười sáu tuổi, tên thánh rửa tội là Phêrô, giúp các thừa sai biên dịch sang tiếng địa phương (Nôm) một sách bổn giáo lý.
[2] Năm 1619, các thừa sai Dòng Tên ở Nước Mặn là những người đầu tiên chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ "địa phương" hơn bất cứ điều gì khác. Tại cư sở  này, các thừa sai đã lập một trường học và tìm được một người thầy thông thạo Hán Nôm để dạy ở trường và với mục tiêu là ông sẽ giúp các thừa sai trong việc nghiên cứu và sáng tạo ngôn ngữ, hoặc dịch các tài liệu của các thừa sai sang Hán Nôm . [3]

Linh mục Daniello Bartoli (1608-1685), nhà sử học Dòng Tên nhận xét về trình độ hiểu biết tiếng Việt của Linh mục Buzomi, bề trên cư sở Nước Mặn: “ với trí nhớ sâu sắc như một thiên tài cùng với sự nhiệt tình tuyệt vời của cha đã giúp cho cha học nhanh ngôn ngữ địa phương đó, nắm bắt tính đa nghĩa của từ, tính chất của các dấu nhấn và cung giọng được thể hiện theo ý muốn. Nhờ vậy, trong một thời gian ngắn, cha đã biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp tốt đẹp”.[4]  Tài liệu được Linh mục Buzomi biên soạn, hiện nay chưa được tìm thấy.

Cũng chính sử gia Linh mục Daniello Bartoli cho biết sau khi Linh mục Borri về châu Âu (1622),  Linh mục Francesco de Pina và Linh mục Buzomi là hai thừa sai ở Đàng Trong đã nắm bắt được ngôn ngữ thông dụng của địa phương, có thể thuyết giáo, trao đổi với các nhân sĩ và các vị Sãi, trong các việc riêng tư hay trong nơi công hội. [5]

Trong thư viết năm 1626, Linh mục Buzomi đã viết một vài chữ Quốc ngữ. Linh mục Đỗ Quang Chính nhận định về những chữ Quốc ngữ của Linh mục Buzomi trong thư nầy: "Nhìn vào những chữ Quốc ngữ của Buzomi, mặc dầu ít, nhưng đã thấy tiến triển, nếu đem so sánh với lối viết của João Roiz, C. Borri, Đắc Lộ, Gaspar Luiz và Antonio de Fontes từ năm 1626 trở về trước". Quả vậy, Linh mục Buzomi viết một thư tại Nước Mặn đề ngày 20.05.1622, trong thư Linh mục viết Thienchu thay vì Thien Chu như thư viết năm 1626, cách viết theo lối cách ngữ (đơn âm) giống như ngày nay. [6]

1622.jpg    1626.jpg
1622                  1626

- Linh mục Francisco de Pina

Linh mục Pina làm việc tại Đàng Trong (1617-1625). Linh mục được các thừa sai đồng nghiệp đánh giá là người có kỹ năng tốt về ngôn ngữ. Báo cáo thường niên năm 1619 cho biết Linh mục Pina vừa mới nắm bắt được một số vốn từ vựng tiếng địa phương [Nôm] thay vì ngữ pháp, vì thứ chữ này [Nôm]  giống như  chữ Trung Hoa, không có ngữ pháp. 
[7]

Trong một bức thư được thảo năm 1623, Linh mục Pina cho biết: "Về phần con, con đã soạn một tập nhỏ về chữ viết và về các cung điệu của ngôn ngữ này; con hiện đang bắt tay vào ngữ pháp. Tuy nhiên, mặc dù con cũng đã tập hợp những câu chuyện thuộc nhiều thể loại khác nhau để ghi trích dẫn của các tác giả, hầu xác định ý nghĩa của các từ ngữ và các mẹo luật ngữ pháp, thì cho đến giờ này con vẫn còn phải nhờ một người đọc để con ghi ra bằng mẫu tự Bồ Đào Nha, hầu cho những người của chúng ta sau này có thể đọc và học thuộc lòng, như từng học Cicéron và Virgile".[8]

Linh mục Pina qua đời vào ngày 15 tháng 12 năm 1625 tại cửa Đại, Hội An. Được an táng tại Hội An.[9]

- Linh mục Christoforo Borri

Sau khi cập bến Cửa Hàn được vài tháng, Linh mục Borri chỉ làm việc tại cư sở Nước Mặn từ tháng 7 năm 1618-1622.
[10] Linh mục Borri đã để lại một số câu từ "Quốc ngữ tiền Đắc Lộ" trong tác phẩm " Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina – Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong". [11]

Linh mục Léopold Cadière nhận định: "Dù trải qua thời gian ít ỏi ở Việt Nam, Linh mục Cristoforo Borri đã tạm nắm bắt được ngôn ngữ xứ nầy. Điều nầy được thể hiện qua những từ và những câu tiếng Việt trong bản tường trình của ông".[12]

"Nơi bản tường trình, ông để lại cho chúng ta những tiêu bản quý báu về những hình thái tiên chinh của chữ Quốc ngữ, một thứ chữ Quốc ngữ trước thời Linh mục Đắc Lộ. Những bút tích này của Linh mục Borri quả là một bổ ích lớn lao cho những ai khi đi sâu nghiên cứu về sự hình thành chữ Quốc ngữ ". [13]

Trong khi nghiên cứu và phiên dịch tác phẩm của Linh mục Borri, dịch giả Hồng Nhuệ đã bộc bạch: "Có một vài câu chữ Quốc ngữ trong bản tường thuật của ông cho chúng ta biết: ngay từ những năm 1618-1620 đã có một khởi đầu hình thành thứ chữ nầy… ".[14]

Các thừa sai đến Đàng Trong năm 1624:

Để tăng số thừa sai cho việc truyền giáo, tháng 12 năm 1624, Tỉnh Dòng ở Macao phái thêm 06 thừa sai đến Đàng Trong:

- Gabriello de Matos, Antonio de Fontes, Manuello Gonzalez Alexandre de Rhodes, Gaspar Luiz, Girolamo Majorica. Trong số các thừa sai này, Gabriello de Matos và Manuello Gonzalez về Hội An; Alexandre de Rhodes và Antonio de Fontes học tiếng Việt với Pina tại Dinh Chiêm; Gaspar Luiz và Girolamo Majorica đến Nước Mặn học tiếng Việt với Linh mục Buzomi.
[15]

Hiện nay được biết một số bút tích của các Linh mục Girolamo Majorica, Gaspar Luiz, Antonio de Fontes và Alexandre de Rhodes:

- Linh mục Girolamo Majorica làm việc tại Đàng Trong (1624-1628) và Đàng Ngoài năm (1632-1656). Linh mục là một chuyên viên Quốc ngữ Nôm. Ông đã viết khoảng 45 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm. Hiện nay, Thư viện Quốc gia Paris lưu trữ 15 cuốn với 4.200 trang.[16]

- Linh mục Gaspar Luiz làm việc tại Đàng Trong (1624-1629; 1632-1639). Trước khi đến Đàng Trong, Linh mục Gaspar Luiz đã viết một bản báo cáo tổng hợp đề ngày 17.12.1621 tại Macao. Trong báo cáo này có vài danh từ Việt chỉ địa danh hay chức vụ. Tuy nhiên đó là những từ sao y bản chính của các thừa sai từ Đàng Trong gởi về Macao.

Sau hai năm ở Nước Mặn, Linh mục Gaspar Luiz viết bản báo cáo đề ngày 01.01.1626 tại Nước Mặn. Trong bản báo cáo này đã có nhiều chữ "Quốc ngữ tiền Đắc Lộ" chẳng hạn:

quinhin.jpg

(Quinhin – Qui Nhơn; Bendá-Bến Đá,
[ngày nay thuộc thôn Bình Đê, xã Hoài Châu Bắc, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định] )

 Ngoài ra khi làm việc tại Đàng Trong ông đã soạn một cuốn từ vựng tiếng Việt nhưng đã bị mất vì chiếc tàu đưa cuốn này từ Đàng Trong về Macao đã bị đắm biển.[17]

Linh mục Antonio de Fontes làm việc tại Đàng Trong (1624-1631) và Đàng Ngoài một vài năm, sau trở lại Đàng Trong và rời khỏi Đàng Trong năm 1639). Ngày 01.01.1626, Linh mục Antonio de Fontes viết bản báo cáo tại Hội An, trong đó có một số chữ "Quốc ngữ tiền Đắc Lộ".[18]

Linh mục Alexandre de Rhodes làm việc tại Đàng Trong (1624-1626) ra vào Đàng Trong 04 lần (1640-1645); Đàng Ngoài (1627-1630). Linh mục Alexandre de Rhodes để lại rất nhiều bút tích về chữ Quốc ngữ. Căn cứ vào những bút tích của Linh mục Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) và Linh mục Buzomi, Linh mục Đỗ Quang Chính nhận xét: "Nếu chúng ta so sánh lối viết chữ Quốc ngữ của Đắc Lộ năm 1631 với lối viết của Buzomi năm 1626, thì hai lối viết gần giống nhau, nghĩa là trình độ gần như nhau".[19]

Chữ Quốc ngữ của Linh mục Alexandre de Rhodes còn được thể hiện trong các thư báo cáo và các tác phẩm của ngài.[20] Đáng chú ý ba tác phẩm Linh mục Alexandre de Rhodes cho xuất bản tại Roma năm 1651 : Cathechismus ... in octo dies diuisus (Phép Giảng Tám Ngày – một cột bằng chữ Latinh, một cột bằng chữ Quốc ngữ) và Tự điển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Việt-Bồ-La), trong đó, tác phẩm “Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio – (Mô tả ngắn gọn về ngôn ngữ Annam hay Đàng Ngoài” còn gọi là cuốn văn phạm Việt Nam đầu tiên) được in chung với Tự điển.

Các thừa sai làm việc tại Đàng Ngoài

Ngoài các Linh mục đầu tiên làm việc tại Đàng Trong, sau đó làm việc tại Đàng Ngoài như đã nói trên, đáng chú ý hai thừa sai chỉ làm việc tại Đàng Ngoài trong giai đoạn 1629-1651:

Linh mục Gaspar d'Amaral  làm việc ở Đàng Ngoài (1629-1630; 1631-1638). Trong bảy năm truyền giáo, Linh mục d'Amaral đã soạn cuốn từ điển Việt-Bồ (Diccionário Annamita-Português). Ngoài ra Linh mục d'Amaral còn để lại rất nhiều chữ Quốc ngữ trong hai bản báo cáo hằng năm được viết vào năm 1632 và 1636. Những chữ Quốc ngữ này đã viết theo lối cách ngữ (đơn âm), có dấu thanh điệu.[21]

- Linh mục António Barbosa đến Đàng Ngoài vào cuối tháng 4 năm 1636. Vì sức khỏe, vào tháng 5 năm 1642 ngài trở về Ma Cao. Ngài qua đời năm 1647, trên đường từ Macao đến Goa. Trong 06 năm ở Đàng Ngoài, Linh mục Barbosa đã soạn cuốn từ điển Bồ -Việt (Diccionário Português-Annamita).

3. Vai trò người Việt trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ trong giai đoạn 1615-1651

Việc khởi đầu sáng tạo chữ Quốc ngữ là một sáng kiến của các thừa sai Dòng Tên phát xuất từ nhu cầu truyền giáo cho người Việt. Công cuộc khởi đầu ấy là công việc được đóng góp từ công sức của nhiều người, trong đó thành phần chủ chốt đầu tiên là số thừa sai Dòng Tên làm việc tại cư sở Nước Mặn ở giai đoạn giữa năm 1618 đến đầu năm 1620 gồm có Linh mục Buzomi, Linh mục Pina, Linh mục Borri. Ngoài những nỗ lực của các thừa sai còn phải kể đến sự tham gia và đóng góp của những người Việt Nam.

Rất tiếc tên tuổi của người Việt cộng tác với các thừa sai trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ trong giai đoạn khởi đầu nầy không được lưu lại đầy đủ. Dẫu sao, chúng ta cũng nêu lên một vài chứng từ những người đầu tiên tiêu biểu ở giai đoạn đầu nầy:

* Người đầu tiên phải kể đến là Cống Quận công Trần Đức Hòa, Khám lý phủ Qui Nhơn. Ông cưu mang, đùm bọc các thừa sai tại cư sở Nước Mặn, cư sở đầu tiên của các thừa sai Dòng Tên trên đất Đại Việt. Ông lo cho những người nầy có điều kiện tốt nhất để khởi động đi tìm con chữ mà hôm nay chúng ta được thừa hưởng. Vì vậy danh tính của ông không thể thiếu trong danh sách những người đầu tiên chúng ta ghi ơn.

* Những vị Sãi như thư Linh mục Pina viết năm 1623: "Tại Pulo Cambi, Cha Buzomi có được hai hay ba ông sãi - bonzo giúp cha làm mọi việc. Như thế, nếu chuyện gì xảy ra, nếu có việc phải giải quyết hoặc những thông điệp quan trọng, cha phái người thông ngôn hoặc một trong các ông sãi; khi giờ giáo lý kết thúc, cha ra về, và họ thì ở lại hoặc để ôn tập, hoặc để chuyện trò với các dự tòng".

* Người thanh niên mười sáu tuổi có tên thánh bổn mạng là Phêrô, người giúp Linh mục Pina dịch sách giáo lý tại Nước Mặn vào năm 1618.

* Anh Augustinô – thông ngôn người Đàng Trong của Linh mục Buzomi, một ngôi sao tại Nước Mặn.

* Chú Anrê, người đã được Linh mục Pina đào tạo và là người đã giúp Linh mục Marques học tiếng Việt tại Dinh Chiêm.

* Những người buôn bán và bà con nông dân Việt Nam ở những địa phương mà các thừa sai được tiếp xúc hằng ngày.

* Những thương nhân với vai trò thông ngôn dù chỉ biết lèo tèo một số từ cần thiết trong giao dịch thương mại.

* Cậu bé mà Linh mục Alexandre de Rohdes đã viết: "Người giúp tôi đắc lực là một cậu bé người xứ này. Trong ba tuần lễ đã dạy tôi các dấu khác nhau và cách đọc hết các tiếng. Cậu không hiểu tiếng tôi mà tôi thì chưa biết tiếng cậu, thế nhưng, cậu có trí thông minh biết những điều tôi muốn nói. Và thực thế, cũng trong ba tuần lễ, cậu học các chữ của chúng ta, học viết và học giúp lễ nữa. Tôi sửng sốt thấy trí thông minh của cậu bé và trí nhớ chắc chắn của cậu. Từ đó cậu đã làm thầy giảng giúp các cha. Cậu đã là một dụng cụ rất tốt để tôn thờ Chúa trong giáo đoàn và cả ở nước Lào, nơi cậu hoạt động trong nhiều năm với thành quả mỹ mãn, cậu rất mến  thương tôi nên đã muốn lấy tên tôi".[22]

4. Vấn đề Ông tổ chữ Quốc ngữ

- Về Linh mục Alexandre de Rhodes

Đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ bắt đầu được sử dụng chính thức ở Việt Nam. Việc  truy tìm gốc gác lịch sử của nó được chú ý. Căn cứ về mặt ngữ học, ba tác phẩm của Linh mục Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 được đánh giá là một thành tựu ghi dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Từ đánh giá này, Linh mục Alexandre de Rhodes được xem như ông tổ chữ Quốc Ngữ.

Tháng Giêng năm 1961, Linh mục Tiến sĩ Nguyễn Khắc Xuyên đã viết trong Lời giới thiệu tác phẩm Phép Giảng Tám Ngày: "Khi tặng cho giáo sĩ Alexandre de Rhodes cái danh hiệu là "thủy tổ chữ quốc ngữ", chúng ta thấy huy hiệu ấy sáng ngời hơn, phong phú hơn, bởi vì đã tan biến nhiều thành kiến cũng như nhiều sai lạc khi người ta bàn giải về sự nghiệp văn hóa của ngài".[23]

Tuy nhiên, trong lời tựa tập sách Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm chữ Quốc ngữ đầu tiên, được Tinh Việt Văn Đoàn xuất bản tại Sài Gòn năm 1961,  Nguyễn Khắc Xuyên - Phạm Đình Khiêm ghi nhận: “Việc sáng chế chữ Quốc ngữ là một công trình tập thể của một số giáo sĩ người Âu, đa số là Bồ Đào Nha, với sự tham gia trực tiếp của một số người Việt dạy tiếng mẹ đẻ cho các giáo sĩ” và Đắc Lộ “chiếm công đầu trong việc hoàn thành và phổ biến lối phiên âm Việt ngữ bằng mẫu tự La-mã, quen gọi là Chữ Quốc ngữ”.

Quả vậy, từ đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, các học giả đã nhìn nhận lại: Việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là cả một quá trình, là công việc tập thể của nhiều giáo sĩ phương Tây cùng những người Việt. Đó là một công việc thật sự giàu tinh thần khoa học. Alexandre de Rohdes đến Đàng Trong muộn (1624), không phải là người đầu tiên dùng mẫu tự gốc Latinh ghi âm tiếng Việt, nhưng là người có công tập đại thành - tổng hợp và hệ thống hóa những kết quả sáng tạo của những thừa sai đi trước như chính ông đã nói rõ trong lời tựa của Từ điển Việt-Bồ-La: "Trong công cuộc này, ngoài những điều mà tôi đã học được từ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm, thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài, thì ngay từ đầu tôi đã học với cha Francisco de Pina người Bồ Đào Nha, thuộc Hội dòng Chúa Giêsu [Dòng Tên] rất mọn hèn của chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng ngôn ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều cha khác cùng Hội dòng, nhất là của cha Gaspar do Amaral và cha Antonio Barbosa, cả hai người đều đã biên soạn cho mỗi người một cuốn từ điển: Cha Gaspar do Amaral khởi đầu từ tiếng An Nam [từ điển Việt–Bồ], Cha Antonio Barbosa khởi đầu từ tiếng Bồ Đào [từ điển Bồ–Việt], nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng Latinh theo lệnh các vị Hồng y rất đáng kính…"

Dictionarium_Annamiticum_Lusitanum_et_Latinum.jpg
(trích Lời tựa Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum)

- Về Linh mục Francisco de Pina

Mặc dù, việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ đã được các học giả xác định là cả một quá trình, là công việc tập thể của nhiều giáo sĩ phương Tây cùng những người Việt.

Thế nhưng, sau nghiên cứu của Linh mục Roland Jacques (2002, 2004, 2012), vai trò của người Bồ được đề cao trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ, và chính Linh mục Roland Jacques cho rằng Linh mục Francisco de Pina là “ông tổ” của chữ Quốc ngữ. Gần đây, trong cuộc Hội thảo tại Lisbon, Portugal vào ngày 24.10.2019, Linh mục R. Jacques kết thúc bài tham luận của mình: "Ngạn ngữ Việt Nam nói “uống nước nhớ nguồn”. Tất cả những ai yêu thích ngôn ngữ Việt Nam, và ngưỡng mộ những phẩm chất không thể so sánh của nó, phải biết cách tỏ lòng tôn kính đối với Francisco de Pina, ông tổ của chữ Quốc ngữ”.[24]

Tựu trung Linh mục Roland Jacques đã dựa vào những điểm sau để cho rằng Pina là “Ông tổ chữ Quốc ngữ”:

- Pina được các nhà truyền giáo cùng thời ghi nhận là người nói tiếng Việt giỏi nhất trong giáo đoàn truyền giáo.

Thực ra nói sành tiếng Việt với việc biên soạn ngữ pháp và từ điển là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau.           

- Bức thư được cho là của Pina viết năm 1623 có chép: Về phần con, con đã soạn một tập nhỏ về chữ viết và về các cung điệu của ngôn ngữ này; con hiện đang bắt tay vào ngữ pháp…”.
[25]  Dựa vào nội dung này, Linh mục Roland Jacques cho rằng "Manuductio ad Linguam Tunckinensem - Bước đầu học tiếng Đàng Ngoài" được soạn/ phát triển dựa trên cơ sở văn bản ban đầu của Pina[26] Và dựa vào bản văn Manuductioad Linguam Tunckinensem, R. Jacques xác định " Ta đã thấy nguồn tài liệu tham khảo để viết ra tác phẩm này được quy cho là Fransisco de Pina"  . [27]  Thực ra cho đến nay, hình thức và nội dung của "tập nhỏ" được đề cập trong thư 1623 chưa hề có nhà nghiên cứu nào đã tìm thấy, ngay cả Linh mục R. Jacques .

Gần đây (2019) Tiến sĩ Phạm Thị Kiều Ly có  bài " The True Editor of the Manuductio ad linguam Tunkinensem - Nhà biên soạn thực sự của Manuductio ad linguam Tunkinensem". [28] Tiến sĩ Kiều Ly không chấp nhận quan điểm Linh mục R. Jacques về Manuductio ad linguam Tunkinensem, một bản thảo khuyết danh ở thế kỷ 17 hay 18 với những chứng cứ khoa học:

- Linh mục Pina chỉ làm việc tại Đàng Trong (1617-1625), học và nghiên cứu ngôn ngữ tại Đàng Trong, vùng phương ngữ có năm thanh điệu so với Đàng Ngoài có sáu thanh điệu. Như vậy Pina không thể biên soạn sáu thanh điệu cho tiếng Đàng Ngoài như trong Manuductio ad linguam Tunkinensem, một phương ngữ mà Pina chưa một lần tiếp xúc.

- Linh mục R. Jacques cho rằng Linh mục Alexandre de Rhodes biên soạn "Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio" và tác giả "Manuductio ad Linguam Tunckinensem" biên soạn độc lập nhưng cùng dùng một bản quy chiếu là văn phạm của Linh mục Pina. Sau khi đưa ra những bằng chứng, Tiến sĩ Kiều Ly kết luận: "Tất cả các dữ liệu ngôn ngữ và lịch sử được trình bày ở trên [theo bài của tác giả] chứng minh rằng tác giả của Manuductio đặt nền tảng bản thảo của chính ông trên bản ngữ pháp của Alexandre de Rhodes. Ngoài ra, không cần thiết phải tranh luận về tình huống thiếu thuyết phục, khó có thể xảy ra rằng hai tác giả làm việc độc lập nhưng sử dụng cùng một tài liệu ngữ pháp được giả định do Francisco de Pina biên soạn". [29]

Thật vậy, trong khi Dòng Tên chưa hiện diện ở Đàng ngoài, Pina chưa đến Đàng Ngoài, R. Jacques cho là Manuductio ad Linguam Tunckinensem (Bước đầu học tiếng Đàng Ngoài) “được soạn/phát triển dựa trên cơ sở văn bản ban đầu của Pina và nguồn tài liệu tham khảo để viết ra tác phẩm này được quy cho là Fransisco de Pina"  là không có cơ sở. Đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chỉ đưa ra những giả định về tác giả của Manuductio ad Linguam Tunckinensem.  Hiện vẫn chưa tìm thấy bất cứ nguồn sử liệu hay bằng chứng khoa học nào để xác định bản đầu tiên là của Linh mục Francisco de Pina viết năm 1623.

5. Kết luận     

Chữ Quốc ngữ là một thành tựu văn hóa đã bén rễ sâu rộng trong đời sống xã hội Việt Nam. Khởi đầu là sự dày công mày mò của các thừa sai Dòng Tên làm việc truyền giáo ở Đại Việt cách nay hơn 400 năm. Với sự trợ giúp của người Việt, các thừa sai sáng kiến dùng mẫu tự gốc Latinh để ghi âm tiếng Việt. Lúc khởi đầu, mỗi người ghi âm theo cách cảm nhận tự nhiên của mình, trải qua thời gian việc ghi âm ấy dần dần được chắc lọc, đi vào điển chế và hoàn thiện. Đến nay vấn đề đã ngã ngũ rằng: Chữ Quốc ngữ là một công trình tập thể, trong đó có cả người phương Tây và cả người Việt. Không thể có "Ông tổ duy nhất" của chữ Quốc ngữ.

Hội thảo khoa học Bình Định với chữ Quốc ngữ (13.01.2016), Giáo sư Phan Huy Lê đã tổng kết: "Trong buổi sơ khai, chúng ta có nêu lên đóng góp của một số người ở một số trung tâm nhất định, nhưng thật khó và không thể xác định được tên tuổi một người ở một nơi vào một thời điểm cụ thể được coi là người và nơi đầu tiên sáng tạo ra chữ Quốc ngữ. Trên quan niệm như vậy, tôi nghĩ rằng trong buổi đầu, nhiều giáo sĩ Dòng Tên, đi tiên phong là người Bồ, người Ý, đã tham gia vào quá trình Latinh hóa chữ viết của người Việt, để lại những chữ Quốc ngữ đầu tiên. Ba trung tâm đã góp phần vào quá trình này là Nước Mặn, Hội An, Dinh Chiêm với tên tuổi của Francesco Buzomi, Cristoforo Borri, Francisco de Pina trong những năm 1618-1623 rồi tiếp theo là Alexandre de Rhodes, Gaspar Luiz, Antonio de Fontes những năm 1625-1626. Có thể coi đó là ba dòng suối đầu tiên tạo nên dòng sông chữ Quốc ngữ. Nếu xem xét sâu hơn về những chứng cứ văn bản có chữ Quốc ngữ thì trong ba trung tâm đó, trung tâm Nước Mặn có phần sớm hơn với sự hiện diện của chữ Quốc ngữ trong cuốn sách của Borri viết năm 1621 và xuất bản lần đầu năm 1631".
[30]

Nguyễn Thanh Quang & Linh mục Gioan Võ Đình Đệ
 
------------
[1] Giai đoạn từ khi đoàn thừa sai Dòng Tên tới Đàng Trong đến khi Linh mục Alexandre de Rhodes xuất bản hai tác phẩm Từ điển Viêt-Bồ-La và Phép Giảng Tám Ngày.
[2] Xem Báo cáo năm 1618 của Francesco Eugenio đề ngày 21.01.1619 tại Macao  trong Lettere Annue Del Japonne, China, Goa, et Ethiopia, Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, trang 400-401.
[3] Xem JOÃO RODRIGUES GIRÃO, JAP. SIN 71, ARSI,  trang 008v, hàng 493-495; Trang 009, hàng 535-540
[4] DANIELLO BARTOLI, Dell'Istoria Della Compagni Di Gesù La Cina, Vol.17,  Libro Terzo, Torino 1825, trang 125-126.
[5] DANIELLO BARTOLI, Sđd, trang 328-329
[6] Đỗ Quang Chính, Lịch sử Chữ Quốc ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sài Gòn 1972, trang 38.  - JAP-SIN 68,36-36V

[7]   Xem  JOÃO  RODRIGUES GIRÃO, sđd trang 002, từ hàng 22 đến 30.- Tác giả thư báo cáo cũng như các thừa sai dòng Tên đương thời có quan điểm ngôn ngữ Trung Hoa không có ngữ pháp. Điều này các vị dựa vào nghiên cứu của thừa sai Matteo Ricci. Khi nghiên cứu ngôn ngữ Trung Hoa, Lm. Matteo Ricci đã chứng minh rằng ngôn ngữ Trung Hoa không có "quán từ, cũng không biến đổi hình thức theo số, giống, thì (temps), thể (mode). Không giống như các chức năng ngữ pháp Latin, tiếng Trung Hoa không biến đổi hình thái. Do đó, ông kết luận rằng ngôn ngữ này không có ngữ pháp. [Xem Liam Matthew Brockey, Journey to the East: The Jesuit Mission to China 1579-1724, Cambridge, MA: Belknap Press of Harvard University Press, 2007, trang 247.],  

[9] Daniello Bartoli, Dell'Istoria Della Compagni Di Gesù La Cina, Libro Quarto, Torino 1825, trang 67-68
[10] BAVH, Juillet-Déc. 1931, Annotations à la Lettre de Gaspar Luiz par Léopold Cadière, trang 414.
[11] Tác phẩm được xuất bản tại Roma năm 1631.
[12] BAVH, Juillet-Déc. 1931, Annotations à la Lettre de Gaspar Luiz par Léopold Cadière, trang 410 .
[13] BAVH, Juillet-Déc. 1931, trang 263.
[14] Cristoforo Borri, Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong 1631, bản dịch Hồng Nhuệ, nxb. Thăng Long, Hoa Kỳ 1989, trang 06.
[15] - Xem Daniello Bartoli, Dell' Istoria Della Compagnia Di Gesù La Cina, Terza Parte, Delle Asia, Libro Quarto, Torino 1825, trang 61.
- Xem Thư Fernandes gởi cho Nuno Mascarenhas, ngày 02/7/1625 tại Faifo. ARSI. JAP-SIN 68, trang 11.
- Xem Wikipedia, the free encyclopedia, mục từ Jerônimo Majorica.
[16] Lm. Nguyễn Hưng, Sơ thảo Thư mục Hán Nôm Công giáo Việt Nam, lưu hành nội bộ, 2000, tr. 23. Theo Linh mục Đỗ Quang Chính, Majorica viết 48 tác phẩm. (Xem Dòng Tên trong Xã hội Đại Việt 1615-1773, Antôn & Đuốc Sáng, trang 161.
[17] Đỗ Quang Chính, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, Antôn & Đuốc sáng, USA 2006, trang 57
[18] Xem Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, Tủ sách Ra Khơi, Sài Gòn 1972 , trang 34-37
[19]
 Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, sđd, trang 39.
[20] Linh mục Alexandre de Rhodes cho ấn hành nhiều tác phẩm liên quan đến đất nước con người Việt Nam, cuốn “Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài” in năm 1650, tiếp đến “Hành trình và Truyền giáo” và cuốn “Cuộc tử đạo của Anrê Phú Yên” được xuất bản vào năm 1653. Tổng kết có 10 tác phẩm Linh mục A. de Rhodes đã viết và cho xuất bản liên quan tới Việt Nam 08 cuốn, Nhật và Iran mỗi nước 01 cuốn.
[21] Xem Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, sđd, trang 54-65.
[22] Hành trình và Truyền giáo, Ủy ban Đoàn kết Công giáo TP. HCM, 1994, trang 56.
[23] Phép Giảng Tám Ngày, Tủ sách Đại Kết, Sài Gòn 1993, trang XX
[24] Bài tham luận với tựa đề "Vài suy niệm về Francisco de Pina và những bước đầu tiên trong việc hình thành chữ Quốc ngữ". Xem tại diendan.org
[25] Được lưu trữ trong quyển sách số 49/V/7 của bộ Jesuitas na Asia tại Biblioteca da Ajuda, Lisbonne.
[26] Manuductio ad Linguam Tunckinensem, một bản văn khuyết danh  được lưu trữ  tại Thư viện Ajuda, Lisbon, Bồ Đào Nha, trong bộ sưu tập Jesuítas na Asia, Vol. 49-VI-08, 313r-323v.
[27] Roland Jacques, Những người BĐN tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học, Viện NNH dịch và xb năm 2007, trang 40.
[28] Bản tiếng Anh "The True Editor of the Manuductio ad linguam Tunkinensem" tại doi.org. Journal of Vietnamese Studies, Vol. 14 No. 2, Spring 2019; trang 68-92. – Xem bản dịch Việt ngữ tại Tài liệu hội thảo 25&26.10.2019, Bốn Trăm Năm Hình Thành & Phát Triển Chữ Quốc Ngữ trong Lịch Sử Loan Báo Tin Mừng Tại Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy Ban Văn Hóa, trang 138-171.
[29] Xem Kiều Ly, The True Editor of the Manuductio ad linguam Tunkinensem, trang 84-85.
[30] UBND tỉnh Bình Định, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam …, Kỷ yếu Hội thảo Bình Định với Chữ Quốc Ngữ, nxb. Tổng Hợp Tp. HCM, trang 617-618.