label

Thứ Năm, 30 tháng 9, 2021

Lời khuyên dành cho các linh mục trẻ từ một người anh

 

Lời khuyên dành cho các linh mục trẻ từ một người anh

 

Các linh mục đặt tay lên đầu các tân chức trong Thánh lễ Truyền chức do Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành ngày 12 tháng 5 năm 2019, tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô ở Vatican. (CNS / Reuters / Yara Nardi)

 

Vào ngày 19 tháng 12 năm 1969, tôi đã phủ phục trong lúc hát Kinh Cầu Các Thánh trước Bàn thờ Chủ tế ở Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô trước khi được thụ phong linh mục. Run lên vì cái lạnh của ngôi nhà thờ không được sưởi ấm, tôi không biết điều gì sẽ xảy ra trong 52 năm tới. Bất chấp những thất bại của chính mình - và đã có quá đủ - thời gian thi hành sứ vụ linh mục của tôi quả là một hồng ân vô bờ. Tôi có thể dễ dàng nói lên một tiếng "Amen" tuyệt vời với tất cả những gì đã qua.

 

Khi tua nhanh đến năm 2021, tôi nhận thấy có một Giáo Hội cùng với thiên chức linh mục đang phải đối mặt với những thách thức to lớn. Mặc dù mọi so sánh đều khập khiễng, nhưng tôi dám chắc rằng các linh mục ngày nay đang đứng trước nhiều thách thức chưa từng có. Những thách thức này bắt nguồn từ nền văn hóa và các vấn đề nội bộ trong đời sống Giáo Hội của chúng ta. Dù nguyên nhân của chúng là gì đi nữa, những thách thức này vẫn diễn ra trong đời sống của các linh mục.

 

Giáo Hội không chỉ là một tổ chức hay một cơ quan. Dĩ nhiên, đó là thân thể của Chúa Kitô và là dân Thiên Chúa được Chúa Thánh Thần quy tụ. Tuy nhiên, Giáo Hội cũng là một tổ chức, và đó là bộ mặt mà thế giới nhìn thấy trước tiên. Các linh mục không chỉ là những người đại diện cho tổ chức. Chúng ta là những người công bố Lời Chúa và là những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cũng là những người đại diện và lãnh đạo của Giáo Hội trong tư cách là một thực thể có tổ chức. Và sự thật này trở thành một thách thức to lớn dành cho sứ vụ của chúng ta.

 

Trong nền văn hóa của chúng ta, tất cả các tổ chức (chẳng hạn như chính phủ, ngân hàng và giáo dục) đều bị nghi ngờ vì không cung cấp những thứ theo như mong đợi và vì thường xuyên làm tổn hại đến lợi ích chung. Trong tư duy của công chúng, Giáo Hội phải chịu một đánh giá tiêu cực đặc biệt khắt khe về mặt tổ chức. Vì một số thành kiến ​​nhưng cũng vì một số sai lầm đáng buồn mà chính Giáo Hội đã mắc phải, nên việc giới thiệu công khai về Giáo Hội trên các phương tiện truyền thông gần như thường mang tính tiêu cực.

 

Giáo Hội thường bị mô tả là theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong lịch sử của mình, đồng lõa trong cuộc khai thác thuộc địa của các dân tộc bản xứ, theo chủ nghĩa kỳ thị nữ giới, kỳ thị đồng tính, nuôi dưỡng và tiếp tay cho việc lạm dụng trẻ em và thiếu niên, can dự một cách không thích đáng vào hoạt động chính trị của quốc gia, chỉ lo làm giàu, và nói chung là cố chấp và cứng rắn. Dưới hình thức cực đoan của họ, những chỉ trích chung chung như thế vốn không công bằng và thiếu chính xác. Tuy nhiên, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng những chỉ trích như thế không phải là không có cơ sở. Chúng liên quan đến những gì một số người trong Giáo Hội đã làm hay đã không làm khi sống theo lý tưởng của Phúc Âm. Và vì vậy, các linh mục, những người đại diện cho Giáo Hội trong tư cách là một tổ chức, dường như phải đối mặt với một hoàn cảnh thực sự đáng buồn, mà trong đó họ phải cố gắng phục vụ và chu toàn sứ vụ của mình.

 

Một thách thức khác đối với các linh mục bắt nguồn từ những xu hướng lớn hơn trong đời sống Giáo Hội. Có những cộng đoàn đức tin sôi động và đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, tổng số thành viên của Giáo Hội ở Hoa Kỳ và Châu Âu vẫn tiếp tục giảm sút. Không có lý do nào là duy nhất cho việc tại sao mọi người rời bỏ hay hờ hững với Giáo Hội, hay tại sao những người trẻ lại không gắn bó với Giáo Hội, hay tại sao việc lên kế hoạch của Giáo Hội cho tương lai lại chắc hẳn có nghĩa là lập kế hoạch cho những sự suy thoái - giống như việc cắt giảm và pha trộn mà chúng ta đang làm ở Chicago. Dường như không ai có cách khắc phục rõ ràng cho tình trạng này hay có được một cách hiệu quả để giải quyết nó. Và đó quả thực là một thách thức rất lớn đối với các linh mục.

 

Cuối cùng, có những điều mà tôi gọi là "những thách thức vĩnh viễn." Xuyên suốt lịch sử, các linh mục đã phải đối mặt với tính quan quyền nơi Giáo Hội, với các giám mục thiếu đi sự thấu hiểu và đôi khi vô tình, với các linh mục khác cạnh tranh hơn là cộng tác, và với những giáo dân dường như luôn bất di bất dịch theo cách của họ. Và vì vậy, đó chính là vấn đề của ngày hôm nay.

 

Tổng hợp lại, những thách thức này tạo nên một bối cảnh rất ảm đạm cho sứ vụ linh mục của chúng ta. Nhưng những thách thức này có đồng nghĩa với việc tinh thần của các linh mục đang đi xuống hay không? Nghe có vẻ là như vậy. Nhưng đây là một bức tranh phức hợp.

 

Kể từ khi Công đồng Vaticanô II kết thúc, nhiều cuộc nghiên cứu về tinh thần của các linh mục nói chung đều đi đến cùng một kết luận: Các linh mục đã bày tỏ nhiều nỗi thất vọng và lời than phiền về cơ cấu Giáo Hội và về bối cảnh sứ vụ của họ. Họ nghĩ rằng các linh mục khác cũng có vấn đề về tinh thần như vậy. Nhưng khi đặt ra các câu hỏi trong phạm vi cá nhân - "Còn bạn thì sao? Bạn có hạnh phúc và mãn nguyện khi thi hành những gì mà linh mục phải làm không?" - thì các linh mục lại cho thấy mặt tích cực về sứ vụ cũng như về ý thức đối với sứ mạng và mục đích của họ. So với những nam lao động người Mỹ khác, thì các linh mục luôn có cảm giác hài lòng ở mức cao hơn trung bình khi thi hành những gì họ phải làm.

 

Vì vậy, tất cả những điều này đưa chúng ta đến đâu? Dù cho tất cả những thách thức không làm tổn hại đáng kể đến tinh thần của chúng ta, nhưng chúng vẫn làm chúng ta nản lòng. Chúng có thể gây khó chịu cho chúng ta và khiến chúng ta tự hỏi chính xác chúng ta nên định hình sứ vụ của mình như thế nào. Chúng ta có thể làm gì đây?

 

Bước đầu tiên là thành thật thừa nhận những thách thức mà chúng ta phải đối mặt. Chúng có thật, và chúng sẽ không biến mất. Sau đó, khi tiến hành phân định cá nhân về việc định hình và định hướng cho sứ vụ của mình trong bối cảnh phức tạp này, thì hơn bao giờ hết, chúng ta cần sử dụng các nguồn lực thiêng liêng đúng đắn có sẵn dành cho chúng ta, chẳng hạn như việc linh hướng, các nhóm cầu nguyện, các cuộc tĩnh tâm và những mối quan hệ bạn bè mang tính trợ lực. Sự ủng hộ về mặt tinh thần lúc này là cần thiết hơn bao giờ hết.

 

Các bước khác cũng có thể làm cho chúng ta tiến bộ. Đức Thánh Cha Phanxicô và những vị tiền nhiệm của ngài đã làm cho tôi phải nhìn đến sự đổi mới của Công đồng Vatican II. Hãy xem xét bốn bước và đường hướng sau đây, những điều vang vọng tiếng của Công đồng và các Đức Giáo Hoàng trong sáu thập kỷ đã qua.

 

linh-muc-2.jpg
 

Một linh mục nâng cao Mình Thánh Chúa trong Thánh lễ tại Nhà thờ Thánh Patrick ở Thành phố New York vào năm 2020. (CNS / Gregory A. Shemitz)

 

1. Trước khi rao giảng, hãy đặt câu hỏi và lắng nghe.

Khi nói về sứ vụ mục tử, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn nói đến từ "cercania" trong tiếng Tây Ban Nha, hay trong tiếng Ý là "vicinanza", mà chúng ta có thể dịch là "sự gần gũi". Tôi sẽ gọi nó là "sự gần gũi mục tử" (pastoral intimacy). Và đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, sự gần gũi này là nền tảng thiết yếu cho tất cả mối quan tâm mà chúng ta dành cho mọi người. Ngài nói, chúng ta là các linh mục, cần phải có mùi chiên. Đó là sự gần gũi! Hãy để tôi gợi ý một cách để nắm bắt được điều này.

 

Đặt câu hỏi là một cách thức cần thiết để xây dựng sự gần gũi. Vì vậy, đây cũng là cách thức mà Chúa Giêsu đã dùng trong khi thi hành sứ vụ của mình. Người đặt ra nhiều câu hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? (Mc 10,51) Sao anh em lại sợ hãi? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? (Mc 4,40) Các anh tìm gì? (Ga 1,38) Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? (Ga 6,67) Anh có yêu mến Thầy không? (Ga 21,17) Những câu hỏi của Chúa Giêsu cho phép Người kết nối với những người khác. Đây là một điểm trong cuốn sách xuất sắc của Michael Buckley, Các anh tìm gì? Những câu hỏi mang tính thử thách và hứa hẹn của Chúa Giêsu (What Do You Seek? The Questions of Jesus as Challenge and Promise).

 

Các câu hỏi thể hiện sự quan tâm của chúng ta đến những người khác và mong muốn làm quen với họ. Làm cách nào để bộc lộ những câu hỏi này cũng rất quan trọng. Đặt câu hỏi nhưng cũng phải lắng nghe cách cẩn thận. Dẫn dắt bằng những câu hỏi không chỉ để rút ra nỗi đau và sự giằng co mà còn là cả ân sủng và hy vọng.

 

2. Sau khi lắng nghe và đến gần, hãy rao giảng như Chúa Giêsu đã làm và dĩ nhiên, hãy rao giảng về Người.

Lời rao giảng của Chúa Giêsu bắt đầu bằng: "Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc 1,15) Rao truyền về sự gần kề của Nước Thiên Chúa chính là việc tuyên bố rằng Thiên Chúa đang cải biến cái thế giới hư hoại này cùng với cuộc sống đau thương của chúng ta. Niềm hy vọng cần thiết này cho phép chúng ta điều hướng bất cứ điều gì xảy ra theo cách của chúng ta. Và kêu gọi mọi người sám hối có nghĩa là mời gọi họ đến với lời đầu tiên và cũng là lời cuối cùng của Thiên Chúa - chính là lòng thương xót. Nói một cách đơn giản, rao giảng như Chúa Giêsu đã làm nghĩa là rao truyền niềm hy vọng và lòng thương xót.

 

Chúng ta cũng phải rao giảng về Chúa Giêsu, không chỉ như một chủ đề khác. Chúa Giêsu, Đấng chịu đóng đinh và đã sống lại, chính là niềm hy vọng và lòng thương xót nhập thể dành cho chúng ta. Nhưng chúng ta thực hiện lời rao giảng này như thế nào? Tôi có thể chia sẻ kinh nghiệm của riêng tôi về điều này. Đó không phải là con đường duy nhất, nhưng tôi biết nó phù hợp với tôi.

 

Trước tiên, tôi cần phải đi vào Lời Chúa, ở lại đó và để cho sức mạnh của Lời Chúa hoạt động trên tôi. Sau đó, tôi có thể nói về Chúa Giêsu, Đấng của niềm hy vọng và lòng thương xót. Nếu tôi làm vậy, một quá trình sẽ bắt đầu vận hành. Tôi bắt đầu bộc lộ bản thân và thực sự chia sẻ trạng thái của tâm hồn mình. Nếu hiểu biết về con người là bước đầu tiên của sự gần gũi mục tử, thì việc rao giảng theo cách này là bước thứ hai.

 

Giáo dân có thể nhận thấy liệu rằng chúng ta có tin những gì chúng ta nói hay không. Họ cũng biết liệu rằng chúng ta có đang nói về Chúa Giêsu từ kinh nghiệm của mình hay không. Họ không bị lừa dối bởi những lời hùng biện hoa mỹ hay những câu chuyện khéo léo. Vậy bất cứ khi nào chúng ta rao giảng, chúng ta cần để tâm hồn mình mở ra với tất cả những nhược điểm của nó. Điều đó thật đáng sợ và nhạt nhẽo. Nhưng điều đó cũng khích lệ chúng ta thực sự dấn thân vào Lời Chúa trước khi cố gắng rao truyền những lời đó.

 

linh-muc-3.jpg
 

Trong bức ảnh năm 2015 này, một linh mục chúc lành cho một sinh viên tham gia Chương trình Học bổng Sinh viên Đại học Công giáo nơi một nhà thờ trong khuôn viên của Đại học Texas ở Austin tại Trung tâm Công giáo của Đại học. (CNS / Được phép của FOCUS)

 

3. Hãy phục vụ cho sự hiệp nhất, để trong mọi việc bạn làm, bạn có thể mang và giữ giáo dân của mình gần lại với nhau và với Thiên Chúa.

Lời từ biệt của Chúa Giêsu bắt đầu trong Tin Mừng theo Thánh Gioan ở chương 13 khi Người phục vụ các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ và tiên báo về sự tự hiến của mình vào ngày hôm sau. Lời từ biệt của Người kết thúc bằng lời cầu nguyện của Người dành cho các môn đệ cùng với cái điệp khúc không lay chuyển của nó, "Lạy Cha, xin hãy cho tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta." (Ga 17,21)

 

Sự phục vụ của Chúa Giêsu không phải là để làm ơn cho người khác. Sự phục vụ của Chúa Giêsu là tình yêu tự hiến của Người để đưa chúng ta đến chỗ hiệp nhất với Thiên Chúa Ba Ngôi và với nhau. Bất cứ khi nào và theo bất kỳ cách nào mà chúng ta phục vụ, chúng ta đều có khuôn mẫu cho mình nơi Người.

 

Sự dữ to lớn đang hoạt động trong thế giới của chúng ta chính là sự chia rẽ vốn rõ ràng theo rất nhiều cách. Chúng ta thường bị chia rẽ và mâu thuẫn bên trong chính mình. Chúng ta cũng bị chia rẽ trong các mối tương quan gần gũi nhất của mình. Hãy nghĩ về Ađam và Êva, Cain và Aben. Các cộng đoàn có thể bị rạn nứt. Một thế giới tổng thể có thể xảy ra chiến tranh bên trong chính nó. Chúng ta cũng bị chia rẽ ngay cả với cái môi trường đang nâng đỡ chúng ta.

 

Điều này có nghĩa là bất kể hành động phục vụ cụ thể của chúng ta là gì đi nữa, thì chúng vẫn luôn luôn cần hướng đến sự hòa giải, thúc đẩy sự hiệp nhất và khám phá ra sự thật rằng chúng ta là fratelli tutti, tất cả đều là anh chị em của nhau.

 

linh-muc-4.jpg
 

Cha Mark Searles, một linh mục thường trú tại Nhà thờ Công giáo Thánh Thomas More ở Allentown, Pennsylvania, đeo khẩu trang khi trao Mình Thánh Chúa cho một giáo dân sau Thánh lễ được cử hành vào ngày 2 tháng 10 năm 2020 tại bãi đậu xe của giáo xứ. (CNS / Chaz Muth)

 

4. Hãy cầu nguyện trong tư cách những người chuyển cầu

Tất nhiên, cầu nguyện là trọng tâm của sứ vụ linh mục của chúng ta. Chúng ta hướng dẫn cầu nguyện, chúng ta là chủ sự nơi Bí tích Thánh Thể, chúng ta cử hành các bí tích khác. Cũng có một cách cầu nguyện khác dành cho chúng ta. Dân Thiên Chúa giao phó cho chúng ta trách nhiệm cầu nguyện cho họ. Chúng ta là những người chuyển cầu.

 

Chuyển cầu là đặt con người và hoàn cảnh vào tay Chúa. Chúng ta đón nhận những điều đó, cầm lấy chúng và giao phó chúng về cho Thiên Chúa. Và điều đó thật đặc biệt.

 

Cách đây một thời gian, tôi nhớ đã đọc một đoạn văn của Marguerite Yourcenar, một nhà văn người Pháp chuyên về một số ghi chép và không phải là một người theo tôn giáo riêng biệt nào cả. Tuy nhiên, cô ấy có một sự thấu hiểu thiêng liêng mà tôi chưa bao giờ có được. Cô ấy viết rằng nếu chúng ta cầu nguyện cho mọi người, thì theo thời gian, họ sẽ xuất hiện trước mắt chúng ta với một diện mạo khác. Cô ấy ngụ ý rằng chúng ta sẽ bắt đầu nhìn thấy họ như Thiên Chúa nhìn thấy.

 

Khi các linh mục chúng ta chuyển cầu cho con người và cho thế giới nói chung, khi chúng ta không ngừng đặt tất cả những điều đó vào trong tay Thiên Chúa, thì điều gì đó sẽ xảy đến đối với chúng ta. Chúng ta sẽ bắt đầu nhìn mọi người theo một cách khác biệt. Và khi suy xét về tất cả những thách thức mà chúng ta đã ghi nhận được, chúng ta cần có một tầm nhìn cao hơn, cái nhìn thánh thiêng sẽ cho phép chúng ta trở thành những người quản lý khôn ngoan.

 

Đây không phải là chuyện đơn giản. Nó là một cách để hiện diện, và theo lời của Mẹ Têrêsa, thì cuối cùng, chúng ta sẽ quan tâm đến việc trở nên trung thành, hơn là trở nên thành công. Điều đó không hề là chuyện nhỏ nhặt.

 

Tác giả: Lm. Louis Cameli*
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên

 

*Lm. Louis Cameli là đại diện của Đức Hồng y Blase Cupich về đào tạo và truyền giáo. Cha là một linh mục thuộc Tổng Giáo phận Chicago. Cha cũng là tác giả của một số đầu sách về thần học

Những bài học của thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu cho các em rước lễ lần đầu

Những bài học của thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu cho các em rước lễ lần đầu

  •  
  •  


NHỮNG BÀI HỌC CỦA THÁNH TÊ-RÊ-SA HÀI ĐỒNG GIÊSU CHO CÁC EM RƯỚC LỄ LẦN ĐẦU

Tác giả: Linh mục Edward Looney
Chuyển ngữ: Cát Bụi, SSS
Nguồn:
 catholicexchange.com (07.5.2019)

WHĐ (30.9.2021) - Giáo hội Công giáo có rất nhiều vị thánh. Một vài vị qua đời khi còn trẻ, những vị khác qua đời khi tuổi đã cao. Tất cả các vị thánh đều cố gắng sống đời sống thánh thiện. Và thật may mắn cho chúng ta, nhiều vị trong số đó đã viết những suy niệm hay hồi ký có thể truyền cảm hứng cho các tín hữu thời nay.

Một trong những cuốn tự truyện nổi tiếng nhất mà chúng ta có là của thánh Tê-rê-sa thành Lisieux (hay Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su), là người đã được người chị ruột của mình và cũng là chị Tổng phụ trách dòng Cát-minh gợi ý viết về câu chuyện đời mình. Những gì thánh Tê-rê-sa để lại quả là một di sản tinh thần, qua đó chị đã thuật lại những thời khắc chính yếu trong cuộc đời mình.

Thánh Tê-rê-sa có thể giúp đỡ những người thân trong cuộc đời bạn, dầu là con hay cháu, dầu là cháu trai hay cháu gái, học sinh hay hàng xóm láng giềng, tìm được ích lợi từ kinh nghiệm Rước Lễ lần đầu. Hãy đoan chắc là bạn sẽ chia sẻ điều này với các em, ngõ hầu ngày Rước Lễ lần đầu của các em sẽ là ngày không thể nào quên, giống như thánh nữ Tê-rê-sa vậy!

1. Hãy dâng một lời thỉnh nguyện đặc biệt lên Chúa

Điều có thể chợt đến trong tâm trí, đó là: bạn hãy nhắm mắt lại, ước một điều ước, và hãy thổi nến sinh nhật. Nhưng đó không phải là điều tôi muốn nói tới, cũng như không phải là điều thánh Tê-rê-sa đề nghị.

Thánh Tê-rê-sa có một tâm hồn rất nhạy cảm. Những phiền muộn của những con người chị gặp trong đời đã tìm được một lối vào tâm hồn và lời cầu nguyện của chị. Một ngày nọ, chị đang đi dạo với thân phụ của mình, chị bắt gặp một người nghèo khổ, và chị muốn giúp đỡ ông ta, nhưng người ấy đã từ chối của bố thí của chị. Chị muốn giúp đỡ cách nào đó, để nghĩ rằng mình có thể trao cho người đàn ông ấy một miếng bánh mà thân phụ chị vừa mới mua, thế nhưng chị đã nhận ra cách tốt hơn để giúp người ấy. 

Thánh Tê-rê-sa viết:

Tôi nhớ là đã nghe ai nói: vào hôm Rước Lễ lần đầu của mình, chúng ta có thể đạt được những gì chúng ta cầu xin, và tư tưởng này thực sự đã an ủi tôi. Dẫu lúc đó, tôi chỉ mới có 6 tuổi thôi, nhưng tôi đã thưa: “con sẽ cầu nguyện cho người nghèo ấy trong ngày con được Rước Lễ lần đầu.” Tôi đã giữ lời hứa của mình sau đó 5 năm, và tôi hy vọng Chúa đã nhậm lời. Ngài đã linh hứng cho tôi đến với Ngài, để giúp đỡ một trong những chi thể khốn khổ của Ngài.

Vào ngày đặc biệt ấy, Tê-rê-sa đã quyết tâm cầu nguyện cho người ấy. Điều đó cho thấy chị rất quan tâm đến người nghèo biết dường nào. Không có gì khác chị có thể cho ngoại trừ những đặc ân mà Chúa có thể ban cho người ấy vào dịp Rước Lễ lần đầu của chị.

Trong cuộc đời mình, chúng ta gặp gỡ rất nhiều người. Chúng ta có thể chẳng bao giờ biết điều gì xảy ra cho họ, thế nhưng qua lời cầu nguyện, chúng ta trao phó họ cho Chúa và cầu xin Người săn sóc họ. Đó là điều Tê-rê-sa đã làm. Hãy động viên các em Rước Lễ lần đầu tạo lập một ý hướng đặc biệt. Đó có thể là cho một thành viên đang đau ốm trong gia đình hay cho một ai đó ở trường học hay trong cộng đoàn. Chính Chúa sẽ giúp đỡ ai đó trong gia đình bạn đang gặp thử thách. Thiên Chúa muốn ban một đặc ân. Ngài muốn chúng ta cầu xin. Đừng bỏ lỡ cơ hội.

2. Hãy quyết định sống Một Đời Sống Mới

Đây thực sự là một lời mời gọi dành cho hết thảy các tín hữu vào mỗi Thánh Lễ Chúa Nhật, để khi rời khỏi Nhà Thờ ta phải sống khác, vì ta đã gặp Thiên Chúa hằng sống nơi Lời và Bí tích. Thánh Tê-rê-sa đã biết thực tại này. Chị viết như sau,

“Một tối nọ, em nghe chị nói là từ khi Rước Lễ lần đầu, người ta phải bắt đầu sống một đời sống mới, và ngay lập tức em đã quyết tâm không đợi đến ngày đó, nhưng bắt đầu ngay lúc đó như chị Celine vậy”.  

Thánh Tê-rê-sa có những người chị gái đã truyền cảm hứng cho chị trong đời sống thiêng liêng. Khi chứng kiến các chị gái của mình lãnh nhận các bí tích, Tê-rê-sa đã được thôi thúc để không trì hoãn sự biến đổi của chính mình. Thế nhưng với chị Celine, người chị lớn tuổi hơn Tê-rê-sa rất nhiều, thì Thiên Chúa lại mời gọi chị Celine bắt đầu sống một đời sống mới ở địa vị của người môn đệ Đức Ki-tô trước khi Rước Lễ lần đầu.  

Bạn hãy nhắc nhở các em Rước Lễ lần đầu rằng: vì các em được lãnh nhận Chúa Giê-su qua việc Hiệp Lễ, giờ đây Người đang mời gọi các em sống theo điều Người đã truyền: hãy yêu thương người khác: là cha mẹ, anh chị em, bằng hữu và cả kẻ thù ngay tại trường học. Hãy hỏi các em: “Cuộc đời con sẽ đổi khác thế nào nhờ Rước Lễ lần đầu?”

3. Hãy nhớ lại Ngày Đặc Biệt

Ngày được Rước Lễ lần đầu là một ngày đặc biệt. Trước hết và trên hết là được gặp gỡ Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh Thể. Đó cũng là ngày các gia đình cùng nhau quy tụ và mừng lễ.

Thánh Tê-rê-sa đã miêu tả ngày chị được Chịu Lễ lần đầu như sau: “Dịp Rước Lễ lần đầu vẫn còn khắc ghi trong tâm hồn tôi một ký ức không thể phai nhòa”. Bạn hãy động viên các em Rước Lễ lần đầu viết một nhật ký về ngày đặc biệt của các em. Các em nhớ gì? Lời cầu nguyện của các em là gì? Điều gì ảnh hưởng các em nhất?

Trẻ em có một sự gần gũi đặc biệt với Chúa và ý thức về sự hiện diện của Người. Hãy cho chúng một cơ hội để chia sẻ những tư tưởng và những ý nghĩ của mình. Chúng chỉ giúp chúng ta yêu mến Chúa Giê-su và Thánh Thể nhiều hơn mà thôi!  

4. Hãy thân thưa với Chúa Giê-su rằng bạn yêu mến Người

Khi vị linh mục cầm Bánh Thánh lên và nói “Mình Thánh Chúa Ki-tô”, thì chúng ta đáp “Amen”, chính Chúa Giê-su đang nói với chúng ta rằng Người yêu thương chúng ta biết dường nào. Người nói với chúng ta “Ta yêu con nhiều đến nỗi ngay giờ đây, Ta nuôi con bằng Mình và Máu của Ta.” Tình yêu mà Chúa Giê-su giãi bày cho chúng ta, đòi hỏi chúng ta đưa ra một lời đáp trả.

Thánh Tê-rê-sa đã thực hiện lời khấn tình yêu này. Chị hồi tưởng lại “A! Nụ hôn đầu tiên của Chúa Giê-su thật ngọt ngào xiết bao; tôi cảm thấy mình được yêu, và tôi đã thân thưa: ‘Con mến yêu Ngài, và mãi mãi con xin hiến thân cho Ngài!’”. Hãy dạy cho các em Rước Lễ lần đầu biết trở về ghế ngồi, quỳ xuống, và dâng lời cầu nguyện để thân thưa với Chúa Giê-su là các em yêu mến Người biết dường nào, và biết ơn hết thảy những gì Người đã làm cho các em.

5. Hãy nhớ đến những người đã qua đời

Việc cử hành Thánh Lễ hiệp nhất chúng ta với các thánh ở Trên Trời. Phụng vụ tại thế của chúng ta tham dự vào phụng vụ trên thiên quốc. Trước khi chúng ta hát bài Sanctus (Thánh, Thánh, Thánh), vị linh mục mời gọi chúng ta tham dự vào bài thánh thi vô tận của các thiên thần và các thánh. Chúng ta dâng Thánh Lễ cho những người đã qua đời, để cầu nguyện cho họ và là cách liên kết chính chúng ta với những ai đã ra đi trước chúng ta qua lời cầu nguyện.

Thánh Tê-rê-sa đã cảm nghiệm được sự ra đi của thân mẫu mình khi chị còn nhỏ. Vào một ngày đặc biệt là dịp được Rước Lễ Lần đầu, chị đã không quên thân mẫu của mình. Chị viết như sau “Ngày hôm đó, một niềm vui duy nhất đã tràn ngập tâm hồn tôi, và tôi đã kết hiệp với bà, là người đã luôn dâng mình cho Người, Đấng đã hiến mình vì tôi!”. Thân mẫu của chị là một người yêu mến Chúa, và Tê-rê-sa đã ước mong yêu mến Người cũng chính bằng tình yêu mà thân mẫu của chị đã yêu mến Chúa Giê-su.

Nếu những người Rước Lễ Lần đầu đã mất đi ông bà hay cha mẹ, thì hãy nói với họ rằng họ có thể kết hiệp chính mình với những ai đã ra đi trước họ. Từ đời đời, các vị ấy là một phần của việc cử hành đặc biệt này.

6. Ước ao Rước Lễ lần thứ hai

Ngày người ta Rước Lễ lần đầu chỉ là bước khởi đầu mà thôi. Họ sẽ có hàng ngàn lần rước lễ khác trong cuộc đời mình. Thời đại thánh Tê-rê-sa Rước Lễ lần đầu thì khác xa với thời đại của chúng ta. Rước lễ thường xuyên, hằng tuần, hay hằng ngày, không mấy phổ biến. Người ta chỉ được phép rước lễ theo lời khuyên của vị linh hướng hay vị Linh Mục mà thôi.

Tê-rê-sa viết: “Kể từ khi Rước Lễ, ước vọng của tôi là được rước lễ nhiều và nhiều hơn nữa, và tôi được phép đi tham dự Thánh Lễ vào những ngày lễ trọng”.

Dù bạn có vai trò gì trong cuộc đời của Người Rước Lễ lần đầu đi nữa, thì hãy động viên các bậc cha mẹ hay các thành viên khác trong gia đình đôn đốc các học sinh đến nhà thờ mỗi Chúa Nhật. Khi họ đến nhà thờ, họ có cơ hội biết Thiên Chúa là tình yêu, biết Ngài yêu thương họ khi đến với họ qua việc Hiệp Lễ. Nhiều ân sủng được ban cho chúng ta trong mỗi Thánh Lễ chúng ta tham dự. Đừng bỏ lỡ hết thảy những gì Chúa muốn thực hiện trong cuộc đời bạn. Cũng như lần Rước Lễ lần đầu, mỗi lần hiệp lễ kế tiếp phải được thực hiện theo cùng một cách thức: có lòng muốn, tạ ơn, cầu nguyện cho người nghèo, cam kết phụng sự Chúa trong cuộc đời bạn, và dùng nó như một thời khắc để tưởng nhớ đến những người đã qua đời.

Các thánh có thể dạy chúng ta rất nhiều về việc Rước Lễ. Cách riêng, các ngài có thể đào sâu lòng biết ơn của chúng ta đối với Thánh Thể. Mỗi lần rước lễ, chúng ta hãy sốt sắng hơn lần trước, cho đến khi chúng ta được hiệp thông với Chúa, mãi mãi trên Thiên Đàng.

Cáo phó bà Mgarita Nguyễn Thị Kim Thanh, khu 1

 CÁO PHÓ 


Một người con của giáo xứ
Bà MAGARITA NGUYỄN THỊ KIM THANH, sinh năm 1960
Hiện ngụ tại khu 1, giáo xứ Cần Xây
Vừa được Chúa gọi về lúc 11 giờ 45 ngày 29/09/2021
HƯỞNG THỌ 62 TUỔI
Nghi thức tẩm liệm vào lúc 17 giờ ngày
29-09-2021
Do thời gian giãn cách vì dịch bệnh nên không có thánh lễ tại Nhà thờ
Nghi thức an táng  lúc 9 giờ ngày 30-09-2021, sau đó an táng tại đất thánh giáo xứ Cần Xây
Trong tinh thần yêu thương hiệp nhất. Xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho linh hồn bà MAGARITA sớm hưởng thánh nhan Chúa

Thứ Ba, 28 tháng 9, 2021

THƯ MỤC VỤ THÁNG 10/2021 GIÁO PHẬN LONG XUYÊN LẦN CHUỖI MÂN CÔI TRONG CƠN ĐẠI DỊCH COVID 19

 THƯ MỤC VỤ THÁNG 10/2021


GIÁO PHẬN LONG XUYÊN LẦN CHUỖI MÂN CÔI

TRONG CƠN ĐẠI DỊCH COVID 19

 

Anh chị em thân quý!

Cộng đồng nhân loại đã đối diện với dịch bệnh Covid-19 gần hai (02) năm nay, và còn đang diễn biến khó lường, trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Theo thống kê chính thức, đến cuối tháng chín, thế giới đã ghi nhận trên 300 triệu trường hợp lây nhiễm, trong đó có trên 4,7 triệu trường hợp đã tử vong. Việt Nam đã ghi nhận  trên 695 ngàn trường hợp nhiễm bệnh, và trên 17,3 ngàn trường hợp đã tử vong. Riêng trên phần đất của giáo phận Long Xuyên, bao gồm tỉnh An Giang, tỉnh Kiên Giang, và thành phố Cần Thơ, chính thức được ghi nhận có 13.220 trường hợp lây nhiễm và 170 trường hợp đã tử vong.

 

Do dịch bệnh, cùng với các biện pháp phòng chống và chữa trị, nên mọi sinh hoạt của con người đã hoàn toàn thay đổi, và đang để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực trên mọi lãnh vực của cuộc sống con người. Đó là ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe thể lý cũng như tâm lý; ảnh hưởng về kinh tế và xã hội; ảnh hưởng về tinh thần, về niềm tin, về các mối tương quan của cá nhân, của gia đình, và của cộng đồng. Cuộc sống ngày nay đầy lo lắng, hoang mang, mất niềm tin, thất vọng, thậm chí tuyệt vọng… Những ảnh hưởng này chắc chắn sẽ còn kéo dài ở tương lai. Đây là một cuộc khủng hoảng lớn.

 

Trong tình trạng này, cùng với Giáo Hội toàn cầu, Giáo Phận Long Xuyên bước vào tháng mười, tháng Mân Côi tôn kính Mẹ Maria. Chúng ta khích lệ nhau nhớ đến lời nhắn nhủ của Đức Mẹ Fatima “hãy siêng năng lần hạt Mân Côi” để cầu xin cho thế giới được bình an.

 

Với sự canh tân của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, kinh Mân Côi là bản tóm tắt Tin Mừng của Chúa Kitô với các mầu nhiệm 5 sự Vui của thời thơ ấu, 5 sự Sáng của giai đoạn rao giảng Tin Mừng, 5 sự Thương của cuộc khổ nạn, và 5 sự Mừng của sự phục sinh. Như vậy, khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta có cơ hội cùng Mẹ Maria chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Kitô.

 

Thực vậy, khi lần chuỗi năm sự Vui, chúng ta cùng Mẹ Maria chiêm ngắm mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô hiện diện hiền lành trong lịch sử nhân loại, để chúng ta cũng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời mình. Khi lần chuỗi năm sự Sáng, chúng ta cùng Mẹ Maria chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Kitô phục vụ con người trong 3 năm rao giảng Tin Mừng, để chúng ta cũng cảm nghiệm được rằng Chúa luôn sẵn sàng bày tỏ tình yêu của Ngài cho chúng ta. Khi lần chuỗi năm sự Thương, chúng ta cùng Mẹ Maria chiêm ngắm mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Kitô, để cũng cảm nghiệm được rằng những đau khổ trong cuộc đời chúng ta là cơ hội để chúng ta bước theo Chúa Kitô trên con đường Thánh Giá, để cùng Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá. Khi lần chuỗi năm sự Mừng, chúng ta cùng Mẹ Maria chiêm ngắm Chúa Kitô chiến thắng ma quỷ và sự chết, để chúng ta sống trong niềm hy vọng, sau khi thi hành sứ vụ với Chúa Thánh Thần và với Hội Thánh, chúng ta cũng được phục sinh với Chúa, như Mẹ Maria được vinh thăng lên trời cả hồn lẫn xác.

 

Như vậy, khi lần chuỗi, chúng ta đang thực hành lời dạy của Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus: “Không có sự chiêm ngưỡng, kinh Mân Côi chỉ là một cái xác không hồn, và việc lần chuỗi có nguy cơ trở nên một việc nhai đi nhai lại một số công thức có tính cách máy móc. Tự bản chất, việc đọc kinh Mân Côi đòi hỏi một nhịp độ thanh thản và kéo dài, để giúp mỗi người chiêm ngưỡng các mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa, như được nhìn thấy bằng đôi mắt của Mẹ, là người đã sống hết sức gần gũi với Chúa” (số 47).

 

Quả thật, khi lần chuỗi Mân Côi với sự chiêm ngưỡng và cảm nghiệm, chúng ta đang noi gương Mẹ Maria “ghi nhớ những sự kiện đó và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2, 19, 51). Lúc đó, việc lần chuỗi Mân Côi trở thành giờ suy niệm, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn ta noi gương Mẹ Maria, nhận ra ý Chúa và nói lời xin vâng. Việc lần chuỗi Mân Côi trở thành giờ học, ta học với Mẹ Maria và để Chúa Thánh Thần dạy ta về Chúa Giêsu, để ta yêu mến và giới thiệu Chúa cho tha nhân. Việc lần chuỗi Mân Côi trở thành lời cầu nguyện, chúng ta cùng Mẹ Maria đối thoại với Chúa, và ta để Chúa Thánh Thần thánh hóa ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, con của Mẹ. Nhất là việc lần chuỗi chung với nhau trở thành sự hiệp thông Hội Thánh, làm thành đoàn lữ hành đức tin trong cuộc hành trình dương thế, có Đức Mẹ và Chúa Giêsu đang chờ đợi ta ở cuối cuộc hành trình.

 

Với những suy tư trên, Giáo Phận Long Xuyên bước vào tháng Mười với việc lần chuỗi Mân Côi xin ơn bình an trong đại dịch Covid.

 

Một cách cụ thể:

Trước hết, mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Phận, hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, được mời gọi “siêng năng lần chuỗi Mân Côi”. Để cổ vũ siêng năng lần chuỗi Mân Côi, Tòa Giám Mục sẽ tổ chức trong tháng mười như sau:

 

Một là: trước các Thánh Lễ trực tuyến hàng ngày cũng như ngày Chúa Nhật, cộng đoàn sẽ chuẩn bị tâm hồn tham dự Thánh Lễ bằng việc lần chuỗi một chục Kinh Mân Côi.

 

Hai là: trong giờ kinh gia đình trực tuyến, sẽ chầu Thánh Thể với việc suy niệm kinh Mân Côi và kết thúc bằng phép lành Thánh Thể.

 

Ba là: Ngày 13/10 kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, sẽ có lần chuỗi Mân Côi và Thánh Lễ trực tuyến lúc 12 giờ trưa. Ước mong các giáo xứ, giáo họ giật chuông nhà thờ theo chương trình trên để báo tin và mời gọi mọi người hiệp thông trong các giờ phượng tự trực tuyến của Giáo Phận. Ngoài ra, Tòa Giám Mục sẽ sớm gửi đến các gia đình tập kinh Mân Côi của Giáo Phận do Nhóm Nghiên huấn biên soạn để sử dụng hằng ngày trong giờ kinh gia đình.

 

Riêng thứ Sáu và thứ Bảy vì không có trực tuyến giờ Kinh gia đình, nên ước mong quý Cha, tùy theo quy định giãn cách phòng chống dịch bệnh tại địa phương, có thể tổ chức cách nào đó cho giáo xứ, giáo họ của mình hiệp thông thiêng liêng cùng lần chuỗi Mân Côi.

 

Ngoài ra, các gia đình được khích lệ tổ chức “chuỗi Mân Côi sống”, nhất là khi các thành viên trong gia đình sống xa nhau. Chuỗi Mân Côi sống trở thành mối dây liên kết thiêng liêng. Bên cạnh đó, theo truyền thống gia đình, ông bà và cha mẹ, đặc biệt là các vị trọng tuổi và đau bệnh, trở thành những người tự đảm nhận lần chuỗi Mân Côi cầu nguyện cho gia đình, luôn nhắc nhở và làm gương cho con cháu lần chuỗi Mân Côi hàng ngày.

 

Tương tự, cũng thật ý nghĩa và thích hợp khi các mục tử trong Giáo Phận, giáo hạt, giáo xứ, giáo họ, tự nhận trách nhiệm lần chuỗi Mân Côi hằng ngày với giáo dân, thay cho giáo dân, cầu cho giáo dân, nhất là cầu cho những giáo dân đang gặp khó khăn thử thách.

 

Anh chị em thân mến,

Cũng nên nhớ là năm nay là năm đặc biệt kính thánh Giuse. Trong lần hiện ra của Mẹ Maria tại Fatima vào ngày 13/10/1917, có sự hiện diện của Chúa Giêsu và Thánh Giuse. Các ngài ban phép lành cho cộng đoàn. Chúng ta hãy phó thác nhân loại, Giáo Phận và gia đình của chúng ta cho Thánh Gia. Xin Thánh Gia ban cho chúng ta sự bình an của Chúa Kitô.

 

 

+ Giuse Trần Văn Toản

Giám mục giáo phận Long Xuyên

Sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 36

 

Sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 36



Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 36 sẽ được cử hành vào Chúa Nhật ngày 21/11/2021, lễ Chúa Ki-tô Vua vũ trụ. Trong Sứ điệp nhân Ngày này, có chủ đề: “Hãy trỗi dậy. Ta chọn ngươi làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy” (x. Cv 26,16), Đức Thánh Cha mời gọi các bạn trẻ làm chứng nhân cho Chúa Giê-su Ki-tô cách can đảm, theo gương thánh Phao-lô tông đồ.

Sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 36

21/11/2021

“Hãy trỗi dậy. Ta chọn ngươi làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy” (x. Cv 26,16)

Các bạn trẻ thân mến,

Một lần nữa cha muốn nắm tay các con và cùng các con bước đi trên cuộc hành hương thiêng liêng hướng đến Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2023 ở Lisbon.

Sứ điệp năm ngoái mà cha ký không lâu trước khi đại dịch bùng phát có chủ đề: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” (Lc 7,14). Trong sự quan phòng của Người, Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta đối mặt với thử thách nặng nề mà khi đó chúng ta sắp trải qua.

Trên toàn thế giới, chúng ta đã phải chịu nỗi đau vì mất rất nhiều người thân yêu và vì sự cô lập xã hội. Tình trạng khẩn cấp về sức khỏe đã ngăn cản các bạn trẻ - với bản chất tự nhiên là hướng ngoại – đi ra ngoài để đến trường hoặc đại học, đi làm và gặp gỡ nhau. Các con rơi vào những tình huống khó khăn mà các con không quen xoay xở. Những người ít được chuẩn bị hơn hoặc thiếu sự hỗ trợ cảm thấy mất phương hướng. Chúng ta đã thấy các vấn đề của gia đình gia tăng, cũng như nạn thất nghiệp, trầm cảm, cô đơn và nghiện ngập, chưa kể đến căng thẳng tích tụ, sự tức giận bùng phát và bạo lực gia tăng.

Tuy nhiên, cảm tạ Chúa vì điều này chỉ là một mặt của đồng tiền. Nếu như thử thách tỏ cho chúng ta thấy sự yếu đuối mỏng manh của chúng ta, thì nó cũng bày tỏ những nhân đức của chúng ta, bao gồm khuynh hướng liên đới. Trên khắp thế giới chúng ta đã thấy nhiều người, trong đó có nhiều người trẻ, chiến đấu vì sự sống, gieo mầm hy vọng, bảo vệ tự do và công bình, là những người kiến tạo hòa bình và xây dựng những cầu nối.

Bất cứ khi nào một người trẻ vấp ngã, theo một nghĩa nào đó, tất cả nhân loại đều ngã. Tuy nhiên, nó cũng đúng là khi một người trẻ trỗi dậy, thì giống như cả thế giới cũng trỗi dậy. Các bạn trẻ yêu quý , các con nắm giữ trong tay tiềm năng lớn lao biết bao! Các con có sức mạnh to lớn biết bao trong trái tim!

Hôm nay cũng vậy, Thiên Chúa đang nói với mỗi người trong các con: “Hãy trỗi dậy!” Cha tha thiết hy vọng rằng Sứ điệp này có thể giúp chúng ta chuẩn bị cho thời đại mới và một trang mới trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta không thể bắt đầu lại nếu không có các con, các bạn trẻ thân mến. Để trỗi dậy, thế giới cần sức mạnh của các con, sự nhiệt tình của các con, niềm đam mê của các con. Do đó cha muốn cùng các con suy gẫm đoạn sách Công vụ Tông đồ trong đó Chúa Giêsu nói với thánh Phao-lô: “Hãy chỗi dậy! Ta chọn ngươi làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy” (Cv 26, 16).

Thánh Phao-lô làm chứng trước mặt vua

Câu Kinh Thánh gợi hứng cho chủ đề của Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2021 được lấy từ chứng tá của thánh Phao-lô trước Vua Ác-ríp-pa, sau khi bị giam tù. Trước đây thánh Phao-lô là kẻ thù và người bắt bớ các Ki-tô hữu, giờ đây ngài chịu xét xử chính vì niềm tin vào Chúa Ki-tô. Khoảng hai mươi lăm năm sau, thánh Tông đồ thuật lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ định mệnh của ngài với Chúa Ki-tô.

Thánh Phao-lô thú nhận rằng trong quá khứ ngài đã bách hại các Ki-tô hữu, cho đến một ngày, khi đang trên đường đi Đa-mát để bắt giữ một vài người trong số họ, một luồng ánh sáng “chói lọi hơn mặt trời” chiếu tỏa xuống quanh ngài và các bạn đồng hành (x. Cv 26, 13). Tuy nhiên chỉ mình ngài nghe “một tiếng nói”: tiếng của Chúa Giê-su nói với ngài và gọi đích danh ngài.

“Sa-un! Sa-un!”

Chúng ta hãy cùng nhau đào sâu sự kiện này. Khi gọi đích danh Sa-un, Chúa giúp anh hiểu rằng Người biết anh một cách cá nhân. Như thể Người nói với anh: “Ta biết ngươi là ai và ngươi đang làm gì; nhưng ngay cả như thế, Ta đang nói trực tiếp với ngươi”. Chúa gọi anh hai lần như dấu chỉ của một ơn gọi đặc biệt quan trọng; Người đã làm như thế trước đó với ông Mô-sê (Xh 3, 4) và Samuel (x. 1 Sam 3, 10). Sa-un ngã xuống đất và nhận ra rằng mình đang chứng kiến ​​một cuộc thần hiện, một mặc khải mạnh mẽ khiến anh bối rối, nhưng không hủy diệt anh. Ngược lại, anh thấy mình được gọi đích danh.

Trên thực tế, chỉ một cuộc gặp gỡ cá nhân và đích danh với Chúa Ki-tô mới thay đổi cuộc đời. Chúa Giê-su cho thấy Người biết Sa-un rất rõ, “từ trong ra ngoài”. Cho dù Sa-un là một kẻ bách hại, cho dù lòng anh tràn đầy sự căm thù các Ki-tô hữu, Chúa Giê-su nhận ra rằng điều này là do anh thiếu hiểu biết và Người muốn thể hiện lòng nhân từ của Người ở nơi anh. Chính ân sủng này, tình yêu nhưng không và vô điều kiện, sẽ là ánh sáng biến đổi hoàn toàn cuộc sống của Sa-un.

“Thưa Ngài, Ngài là ai?”

Đứng trước sự hiện diện mầu nhiệm gọi đích danh mình, Sa-un hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” (Cv 26, 15). Câu hỏi này vô cùng quan trọng và tất cả chúng ta, sớm muộn gì cũng phải hỏi. Nghe người khác nói về Đức Ki-tô thôi thì chưa đủ, nhưng  còn cần phải nói chuyện với Ngài một cách cá nhân. Cách căn bản, đây là cầu nguyện. Đó là nói chuyện trực tiếp với Chúa Giê-su, ngay cả khi có lẽ lòng chúng ta vẫn còn đang rối loạn, tâm trí chúng ta đầy nghi ngờ hoặc thậm chí là khinh miệt đối với Chúa Giê-su Ki-tô và các Ki-tô hữu. Cha hy vọng rằng mỗi người trẻ, từ tận đáy lòng của mình, sẽ hỏi câu hỏi này: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”

Chúng ta không còn có thể cho rằng mọi người đều biết Chúa Giê-su, ngay cả trong thời đại của internet. Câu hỏi mà nhiều người đang hỏi về Chúa Giêsu và Giáo hội của Người chính là câu hỏi này: “Bạn là ai?” Trong toàn bộ câu chuyện về lời kêu gọi thánh Phao-lô, đây là lần duy nhất thánh Phao-lô nói. Và Chúa trả lời ngay lập tức: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (sđd).

“Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ!”

Bằng câu trả lời này, Chúa Giê-su tiết lộ cho Sa-un một mầu nhiệm vĩ đại: Người đồng hóa mình với Hội Thánh, với các Ki-tô hữu. Cho đến thời điểm đó, Sa-un không nhìn thấy gì về Chúa Ki-tô, nhưng chỉ thấy các tín hữu mà anh đã tống vào ngục (x. Cv 26, 10) và đồng thuận với việc lên án tử cho họ (ibid.). Anh đã thấy cách các Ki-tô hữu đáp lại điều ác bằng sự tốt lành, đáp lại lòng căm thù bằng tình yêu thương, chịu đựng sự bất công, bạo lực, những tai họa và sự bắt bớ vì danh Chúa Ki-tô. Bằng một cách nào đó, mà Sa-un không hề hay biết, anh đã gặp được Chúa Ki-tô. Anh đã gặp Người nơi các Ki-tô hữu!

Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe nói “Chúa Giê-su có, Giáo hội không!”, như thể người này có thể là sự thay thế cho người kia. Người ta không thể biết Chúa Giê-su nếu không biết Giáo hội. Người ta không thể biết Chúa Giêsu nếu không qua những anh chị em trong cộng đồng của Người. Chúng ta không thể tự gọi mình là Ki-tô hữu hoàn toàn trừ khi chúng ta trải nghiệm chiều kích giáo hội của đức tin.

“Đá lại mũi nhọn thì khốn cho người”

Đây là những lời Chúa nói với Sa-un sau khi anh ngã xuống đất. Tuy nhiên, rõ ràng là từ lâu Người đã lặp lại cùng những lời đó với Sa-un một cách mầu nhiệm, nhằm lôi kéo anh đến với Người. Tuy nhiên, Sa-un đã chống lại. Chúa của chúng ta cũng dùng cùng lời “khiển trách” nhẹ nhàng đó nói với mỗi người trẻ quay lưng lại với Người: “Con sẽ chạy trốn Ta cho đến khi nào? Tại sao con không nghe Ta đang gọi con? Ta đang đợi con quay về với Ta”. Có những lúc chúng ta cũng nói như ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Tôi sẽ không còn nghĩ về Người nữa” (x. Gr 20, 9). Nhưng trong lòng mỗi người có một ngọn lửa bùng cháy: dù chúng ta cố gắng dập tắt nó, chúng ta vẫn không thể, vì nó mạnh hơn chúng ta.

Chúa đã chọn một người đang bắt bớ Người, hoàn toàn thù ghét Người và những người theo Người. Chúng ta thấy rằng, trong mắt Thiên Chúa, không ai bị hư mất. Nhờ cuộc gặp gỡ cá nhân với Người, chúng ta luôn có thể bắt đầu lại từ đầu. Không một người trẻ nào nằm ngoài tầm với của ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Không ai có thể nói rằng: Hắn đã đi quá xa… Đã quá muộn… Bao nhiêu người trẻ tuổi cuồng nhiệt nổi loạn và đi ngược dòng, nhưng trong sâu thẳm trái tim họ cảm thấy cần phải dấn thân, yêu hết lòng, có một sứ mệnh trong cuộc sống! Chúa Giê-su đã thấy chính xác điều đó nơi chàng trai trẻ Sa-un.

Nhận ra sự mù quáng của chúng ta

Chúng ta có thể tưởng tượng rằng, trước khi gặp gỡ Chúa Giê-su, ở một mức độ nào đó, Sa-un “chỉ thấy có mình”, nghĩ rằng mình “vĩ đại” dựa trên sự chính trực về đạo đức, lòng nhiệt thành, lý lịch và trình độ học vấn của mình. Chắc chắn, anh tin chắc mình đúng. Nhưng khi Chúa tỏ mình ra, Sa-un “ngã xuống đất”, bị mù. Đột nhiên, anh rơi vào tình trạng không thể nhìn thấy, cả về thể chất và tinh thần. Sự xác tín của anh đang bị lung lay. Trong thâm tâm, anh nhận ra rằng lòng nhiệt thành cuồng nhiệt giết các Ki-tô hữu là hoàn toàn sai lầm. Anh nhận ra rằng anh không sở hữu sự thật tuyệt đối, và thực sự còn xa nó. Sự chắc chắn và niềm kiêu hãnh của anh tan biến; đột nhiên anh thấy mình mất phương hướng, yếu ớt và “nhỏ bé”.

Sự khiêm tốn như vậy - ý thức về những hạn chế của chúng ta - là điều cần thiết! Ai nghĩ rằng họ biết mọi thứ về bản thân, về người khác và thậm chí về các chân lý tôn giáo, sẽ khó gặp gỡ Chúa Giê-su Ki-tô. Sau khi bị mù, Sa-un đã mất điểm tham chiếu của mình. Một mình trong bóng tối, những thứ rõ ràng duy nhất là ánh sáng anh nhìn thấy và giọng nói anh nghe thấy. Thật là nghịch lý! Chính khi chúng ta bị mù, chúng ta mới bắt đầu nhìn thấy!

Sau kinh nghiệm choáng ngợp trên đường đi Đa-mát, Sa-un muốn được gọi là Phao-lô, có nghĩa là “nhỏ bé”. Điều này không giống như những biệt danh hoặc tên được đặt quá phổ biến ngày nay. Cuộc gặp gỡ của anh với Chúa Ki-tô đã thay đổi cuộc đời anh; nó khiến anh cảm thấy mình thực sự nhỏ bé và phá bỏ mọi thứ ngăn cản anh thực sự nhận ra chính mình. Và anh nói với chúng ta: “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa.” (1Cr 15, 9).

Thánh Têrêsa thành Lisieux, cũng như bao vị thánh khác, rất thích nói rằng khiêm tốn là sự thật. Ngày nay, chúng ta lấp đầy thời gian của mình, đặc biệt là trên mạng xã hội, với bất kỳ “câu chuyện” nào, thường được xây dựng cẩn thận với hậu cảnh, các máy ảnh và các hiệu ứng đặc biệt. Càng ngày, chúng ta càng muốn trở thành tâm điểm chú ý, được đóng khung hoàn hảo, sẵn sàng cho “bạn bè” và “những người theo dõi” thấy một hình ảnh của chính chúng ta nhưng không phản ánh con người thật của chúng ta. Chúa Kitô, mặt trời đúng ngọ, đến để soi sáng chúng ta và khôi phục tính xác thực của chúng ta, giải phóng chúng ta khỏi tất cả các mặt nạ của chúng ta. Người cho chúng ta thấy rõ ràng chúng ta là ai, vì đó chính xác là cách Người yêu thương chúng ta.

Thay đổi quan điểm

Sự hoán cải của thánh Phao-lô không phải là một sự quay lại đàng sau, nhưng là rộng mở đón nhận cách nhìn hoàn toàn mới.  Thật sự là ngài tiếp tục hành trình đến Đa-mát, nhưng không còn là con người như trước; bây giờ ngài là một con người khác (Cv 22, 10).  Sự hoán cải có thể canh tân cuộc sống hằng ngày của chúng ta.  Chúng ta tiếp tục làm những gì chúng ta đã làm trước đây, nhưng trái tim và động lực của chúng ta bây giờ đã thay đổi.  Trong trường hợp của thánh Phao-lô, Chúa Giêsu bảo ngài tiếp tục đi đến Đa-mát, nơi ngài đã dự định đi.  Thánh Phao-lô đã vâng lời, nhưng mục tiêu và mục đích cuộc hành trình của ngài đã thay đổi hoàn toàn.  Từ đây trở đi, thánh Phao-lô sẽ nhìn mọi sự với đôi mắt mới, không còn là kẻ bắt bớ và đao phủ , nhưng là một môn đệ và một chứng nhân.  Ở Đa-mát, Anania sẽ rửa tội cho ngài và giới thiệu ngài trước cộng đoàn Ki-tô hữu.  Trong thinh lặng và cầu nguyện, thánh Phaolô sẽ đào sâu trải nghiệm của mình và danh tính mới đã được Chúa Giêsu trao ban.

Đừng làm tiêu tan sức mạnh và niềm đam mê của tuổi trẻ

Thái độ của thánh Phao-lô trước khi gặp gỡ Chúa Giê-su Phục Sinh không có gì lạ đối với chúng ta.  Các bạn trẻ thân mến, có bao nhiêu sức mạnh và niềm đam mê cũng nổi lên trong lòng các con!  Nhưng sự tăm tối xung quanh và trong các con có thể ngăn cản các con nhìn các sự việc cách đúng đắn.  Các con có thể có nguy cơ đánh mất chính mình trong những tranh đấu vô nghĩa, thậm chí cả những trận chiến bạo lực.  Thật đáng buồn là những nạn nhân đầu tiên lại là chính các con và những người thân cận nhất của các con.  Và một nguy hiểm nữa là việc tranh đấu cho những nguyên nhân mà ban đầu là bảo vệ các giá trị, nhưng khi đến mức quá đáng, sẽ trở thành những ý thức hệ phá hoại.  Bao nhiêu bạn trẻ ngày nay được truyền cảm hứng, có lẽ được thúc đẩy, bởi các xác tín chính trị hay tôn giáo, đã trở thành những công cụ bạo lực và phá hoại trong cuộc sống của biết bao nhiêu người!  Có kẻ, thông thạo với thế giới kỹ thuật số, dùng thực tại ảo và phương tiện truyền thông như là chiến trường mới, sử dụng không suy nghĩ các tin giả làm vũ khí để lan truyền chất độc và tiêu diệt các đối thủ.

Khi xâm nhập vào cuộc đời của thánh Phaolô, Chúa không xóa bỏ tính tình hay lòng nhiệt thành của thánh nhân. Trái lại, Người làm cho các tài năng của thánh nhân triển nở bằng cách làm cho ngài trở nên một sứ giả Tin Mừng tuyệt vời cho khắp thế gian.

Tông đồ của các dân tộc

Kể từ đó, thánh Phao-lô sẽ được gọi là “tông đồ của các dân tộc”.  Thánh Phao-lô, trước đây là một Pha-ri-sêu, là một người tuân giữ Lề Luật cách tỉ mỉ!  Ở đây chúng ta thấy một nghịch lý nữa:  Chúa đặt niềm tin tưởng vào chính kẻ đã bắt bớ Người.  Như thánh Phao-lô, mỗi người chúng ta có thể nghe trong thẳm sâu tâm hồn tiếng nói này: “Ta tin con.  Ta biết lịch sử đời con và Ta ôm ấp nó, cùng với con”.  Lối suy nghĩ của Chúa có thể biến đổi kẻ bách hại tồi tệ nhất thành một chứng nhân vĩ đại.

Môn đệ của Chúa Ki-tô được mời gọi trở nên “ánh sáng cho thế gian” (Mt 5, 14).  Bây giờ thánh Phao-lô phải làm chứng cho những gì ngài thấy, nhưng hiện giờ ngài đang bị mù.  Một nghịch lý nữa!  Nhưng chính qua kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô có thể cảm thông hoàn toàn với những người mà Chúa sai ngài đến với họ.  Đó là lý do ngài được trở thành một chứng nhân: “để mở mắt cho họ, để họ rời bóng tối mà trở về cùng ánh sáng” (Cv 26, 18).

“Hãy trỗi dậy và làm chứng!”

Khi chúng ta đón nhận sự sống mới được trao ban trong bí tích rửa tội, Thiên Chúa cũng giao phó cho chúng ta một sứ vụ quan trọng và biến đổi cuộc đời: “Con sẽ là chứng nhân của Ta!”

Hôm nay Chúa Ki-tô nói với mỗi người trẻ các con cùng những lời Người đã nói với Phaolô: “Hãy trỗi dậy! Con không thể cứ nằm lì trên mặt đất và than khóc về lỗi lầm của mình:  một sứ vụ đang chờ con!  Con cũng có thể làm chứng cho những điều Chúa Giê-su đã bắt đầu hoàn thành trong cuộc sống của con.  Nhân danh Chúa Giê-su, Cha xin các con:

- Hãy trỗi dậy và làm chứng rằng các con cũng đã từng mù lòa và đã gặp được ánh sáng.  Các con cũng đã nhìn thấy sự tốt lành và vẻ đẹp của Thiên Chúa trong các con, trong người khác và trong sự hiệp thông của Giáo Hội, nơi chiến thắng mọi sự đơn  độc.

- Hãy trỗi dậy và làm chứng cho tình yêu và sự tôn trọng, điều có thể hình thành trong mối quan hệ của con người, trong cuộc sống gia đình, trong việc đối thoại giữa cha mẹ và con cái, giữa giới trẻ và người cao niên.

- Hãy trỗi dậy và bảo vệ công bằng xã hội, sự thật và lẽ phải, nhân quyền, những người bị bách hại, những người nghèo và người dễ bị tổn thương, những người không có tiếng nói trong xã hội, những người nhập cư.

- Hãy trỗi dậy và làm chứng cho cách nhìn mới khiến các con nhìn thấy thụ tạo bằng  đôi mắt đầy kinh ngạc, khiến các con nhận ra Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta và cho các con lòng can đảm để bảo vệ hệ sinh thái toàn diện.

- Hãy trỗi dậy và làm chứng rằng những cuộc đời thất bại có thể được làm lại, những người chết về phần thiêng liêng có thể sống lại, những người sống kiếp nô lệ có thể trở lại tự do, những tâm hồn bị đè nặng bởi sầu khổ có thể tìm lại hy vọng.

- Hãy trỗi dậy và làm chứng cách vui tươi rằng Chúa Ki-tô đang sống! Hãy truyền bá sứ điệp yêu thương và cứu độ của Ngườii giữa các bạn cùng trang lứa với các con, ở trường học, trong đại học, ở nơi làm việc, trong thế giới kỹ thuật số, ở bất cứ nơi đâu.

Chúa Giê-su, Giáo hội, Đức Giáo hoàng tin tưởng nơi các con và chọn các con làm chứng nhân cho nhiều người trẻ khác mà các con sẽ gặp trên “những nẻo đường Đa-mát” của thời đại chúng ta. Các con đừng quên: “Bất cứ ai đã thực sự trải nghiệm tình thương cứu độ của Thiên Chúa thì không cần nhiều thời gian hay một sự đào tạo lâu dài để đi rao giảng tình thương ấy. Mọi Kitô hữu đều là người truyền giáo theo mức độ họ đã gặp gỡ tình thương của Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô” (Niềm vui Tin Mừng, 120).

Các con hãy trỗi dậy và cử hành Ngày Giới trẻ Thế giới tại các Giáo hội địa phương!

Một lần nữa Cha mời tất cả các con, những người trẻ trên thế giới, tham gia cuộc hành hương thiêng liêng sẽ dẫn chúng ta đến việc cử hành Ngày Giới trẻ Thế giới tại Lisbon vào năm 2023. Tuy nhiên, cuộc hẹn tiếp theo là tại các Giáo hội địa phương của các con, trong các giáo phận khác nhau trên thế giới, nơi mà Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2021 sẽ được cử hành tại địa phương vào ngày lễ trọng Chúa Ki-tô Vua.

Cha hy vọng rằng tất cả chúng ta có thể sống những giai đoạn này như những người hành hương thực sự chứ không phải là “những khách du lịch của đức tin”! Chúng ta hãy mở lòng mình trước những điều ngạc nhiên của Thiên Chúa, Đấng muốn chiếu tỏa ánh sáng của Người trên hành trình của chúng ta. Chúng ta hãy mở lòng để lắng nghe tiếng nói của Người, cũng qua tiếng nói của các anh chị em của chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ giúp nhau cùng nhau trỗi dậy, và trong thời khắc lịch sử khó khăn này, chúng ta sẽ trở thành những ngôn sứ của thời đại mới và tràn đầy hy vọng! Xin Đức Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc chuyển cầu cho chúng ta.

Roma, đền thờ thánh Gioan Laterano, 14 tháng 9 năm 2021

Lễ Suy tôn Thánh Giá