ĐTC Phanxicô: Hy sinh bản thân phục vụ tha nhân là dấu hiệu sự tự do cao nhất
Hồng Thủy - Vatican News
Đối với thánh Phaolô, tự do là một món quà, là hoa trái của sự sống mới của chúng ta trong Chúa Kitô. Qua bí tích rửa tội, chúng ta đã được giải thoát khỏi sự trói buộc với tội lỗi và được giải thoát để có một đời sống yêu thương quảng đại theo Tin Mừng. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Nếu anh em ở lại trong lời Thầy… anh em sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,31-32). Do đó, sự tự do của Kitô hữu được đặt nền tảng trên ân sủng của Thiên Chúa, món quà được ban cách nhưng không cho chúng ta, và trên chân lý của Chúa Kitô. Qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người, Chúa Giêsu Kitô đã mặc khải tình yêu sâu xa của Thiên Chúa, và dạy chúng ta rằng sự trao tặng hoàn toàn bản thân để phục vụ người khác, ngay cả cho đến chết, là dấu hiệu của sự tự do cao nhất.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Tự do là một kho báu mà chúng ta chỉ thực sự trân trọng khi nó đã mất đi. Đối với nhiều người trong chúng ta, quen với cuộc sống tự do, tự do thường có vẻ như là một quyền có được hơn là một món quà và một di sản cần được bảo tồn. Có bao nhiêu hiểu lầm xung quanh chủ đề tự do, và bao nhiêu cái nhìn khác nhau đã xung đột trong nhiều thế kỷ!
Trong trường hợp của tín hữu Galát, thánh Tông đồ không thể chịu được khi những Kitô hữu đó, sau khi đã biết và đón nhận chân lý về Đức Kitô, lại để mình bị lôi cuốn bởi những đề nghị lừa dối, từ tự do trở thành nô lệ: từ sự hiện diện giải thoát của Chúa Giêsu đến tình trạng nô lệ của tội lỗi, của chủ nghĩa nệ luật.
Đức Thánh Cha lưu ý: Ngay cả chủ nghĩa nệ luật ngày nay cũng là vấn đề của chúng ta, của nhiều Kitô hữu đang ẩn náu trong chủ nghĩa luật lệ, trong luân lý. Do đó, thánh Phaolô mời gọi các Kitô hữu hãy kiên định với tự do mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa, không để mình rơi vào lại dưới “ách nô lệ” (Gl 5, 1).
Lời rao giảng ngăn cản tự do trong Chúa Kitô thì không phải là truyền giáo
Đức Thánh Cha nói tiếp: Thánh Phaolô đã bảo vệ cách chính đáng sự tự do này. Ngài biết rằng một số “người giả danh giả nghĩa anh em” đã len lỏi vào cộng đoàn để “dò xét” sự tự do mà chúng ta có được trong Đức Kitô Giêsu, “nhắm khiến chúng ta trở thành nô lệ” (Gl 2, 4), và thánh Phaolô không thể chịu được điều này. Một lời rao giảng mà ngăn cản sự tự do trong Chúa Kitô sẽ không bao giờ là việc truyền giáo. Chúng ta không bao giờ có thể ép buộc nhân danh Chúa Giêsu, chúng ta không thể khiến bất kỳ ai trở thành nô lệ nhân danh Chúa Giêsu, Đấng ban cho chúng ta được tự do. Tự do là một món quà được ban cho chúng ta trong bí tích rửa tội.
Hai trụ cột của tự do Kitô giáo
Theo Đức Thánh Cha, giáo huấn của thánh Phaolô về tự do cũng theo giáo huấn của Chúa Giêsu. Ngài nói: Nhưng trên tất cả, giáo huấn của thánh Phaolô về tự do là điều tích cực. Thánh Tông đồ đề xuất giáo huấn của Chúa Giêsu, mà chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng thánh Gioan: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (8,31-32). Vì vậy, lời kêu gọi trước hết là ở lại trong Chúa Giêsu, nguồn chân lý giải thoát chúng ta. Do đó, tự do Kitô giáo được đặt trên hai trụ cột cơ bản: thứ nhất, ân sủng của Chúa Giêsu; thứ hai, chân lý mà Đức Kitô mặc khải cho chúng ta và sự thật đó là chính Người.
1. Tự do là món quà của tình yêu
Đức Thánh Cha giải thích: Trước hết đó là một món quà của Chúa. Sự tự do mà tín hữu Galát nhận được - và chúng ta cũng giống như họ, nhận được nhờ bí tích rửa tội – xuất phát từ sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô tập trung toàn bộ giáo huấn của ngài vào Đức Kitô, Đấng đã giải thoát ngài khỏi những ràng buộc với đời sống quá khứ: chỉ nơi Chúa mới trổ sinh những hoa trái của sự sống mới theo Thánh Linh. Trên thực tế, sự tự do chân thật nhất, thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi, nảy sinh từ Thập giá của Chúa Kitô. Chúng ta được thoát khỏi sự trói buộc của tội lỗi nhờ Thập giá của Chúa Kitô. Chính nơi Chúa Giêsu chấp nhận bị đóng đinh, tự biến mình thành nô lệ, Thiên Chúa đã đặt nguồn cội của sự giải phóng con người.
Điều này không bao giờ hết làm chúng ta ngạc nhiên: nơi mà chúng ta bị tước bỏ mọi tự do, tức là cái chết, có thể trở thành cội nguồn của tự do. Nhưng đây là mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa: Chúng ta không dễ dàng hiểu mầu nhiệm này, nhưng là sống nó. Chính Chúa Giêsu đã công bố điều đó khi ngài nói: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10, 17-18). Chúa Giêsu đạt được sự tự do hoàn toàn bởi hiến mình chịu chết; Người biết rằng chỉ bằng cách này Người mới có thể giành được sự sống cho tất cả mọi người.
Chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm mầu nhiệm tình yêu này. Đây là lý do tại sao ngài nói với tín hữu Galát, với những lời hết sức táo báo: “Tôi đã được đóng đinh với Đức Kitô” (Gl 2,19). Trong hành động kết hợp hết sức cao độ đó với Chúa, ngài biết mình đã nhận được món quà lớn nhất của đời mình: sự tự do. Thật vậy, trên Thập giá, Người đã đóng đinh “xác thịt với những đam mê và ham muốn của nó” (5, 24). Chúng ta hiểu rằng thánh Tông đồ đã tràn đầy niềm tin đến mức nào, đã két hiệp thân mật với Chúa Giêsu đến mức nào. Và trong khi một mặt, chúng ta cảm thấy đây là điều mình còn thiếu, mặt khác, chứng tá của thánh Tông đồ khuyến khích chúng ta tiến bước trong cuộc sống tự do này. Người Kitô hữu được tự do, phải được tự do và được mời gọi đừng quay lại làm nô lệ cho giới luật, cho những điều xa.
2. Hành trình sự thật và tự do
Đức Thánh Cha giải thích tiếp: Trụ cột thứ hai của tự do là sự thật. Trong trường hợp này cũng vậy, cần nhớ rằng chân lý của đức tin không phải là một lý thuyết trừu tượng, nhưng là thực tại của Chúa Kitô hằng sống, Đấng trực tiếp đụng chạm đến ý nghĩa hàng ngày và tổng thể của đời sống cá nhân.
Đức Thánh Cha nhận định về điều này: Có bao nhiêu người không học hành, thậm chí không biết đọc và viết nhưng đã hiểu rõ sứ điệp của Đức Kitô, có được sự khôn ngoan này giải thoát họ. Đó là sự khôn ngoan của Đức Kitô được ban bởi Chúa Thánh Thần qua bí tích rửa tội. Ví dụ, chúng ta thấy có bao nhiêu người đang sống sự sống của Chúa Kitô hơn các nhà thần học vĩ đại, họ đã làm nhân chứng tuyệt vời cho sự tự do của Tin Mừng.
Tự do làm cho chúng ta tự do theo cách nó biến đổi cuộc sống của một người và hướng người đó đến những điều tốt đẹp. Do đó, Đức Thánh Cha nhận định: để được tự do thực sự, chúng ta không chỉ cần biết về bản thân mình, ở mức độ tâm lý, mà trên hết là biết rõ về chính mình ở một mức độ sâu sắc hơn. Và ở đó, trong trái tim, hãy mở mình ra để đón nhận ân sủng của Chúa Kitô. Sự thật phải khiến chúng ta khắc khoải - chúng ta hãy quay lại với từ ngữ rất Kitô giáo này: khắc khoải. Chúng ta biết rằng có những Kitô hữu không bao giờ lo lắng: họ luôn sống như vậy, không có hoạt động trong tâm hồn, không có khắc khoải. Vì sao? Bởi vì khắc khoải là tín hiệu cho thấy Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong chúng ta và tự do là một sự tự do năng động, được khơi dậy bởi ơn Chúa Thánh Thần.
Đức Thánh Cha kết luận: Đây là lý do tại sao tôi nói rằng tự do phải quấy rầy chúng ta, nó phải liên tục đặt ra những câu hỏi cho chúng ta, để chúng ta có thể ngày càng đi sâu hơn vào những gì chúng ta thực sự là. Bằng cách này, chúng ta khám phá ra rằng con đường của sự thật và tự do là một hành trình vất vả kéo dài suốt đời. Để duy trì tự do thì vất vả, nhưng không phải là không thể. Hãy can đảm lên, chúng ta tiến bước trên hành trình này và nó sẽ mang lại điều tốt cho chúng ta. Đó là một cuộc hành trình, trong đó Tình yêu xuất phát từ Thập giá hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta: Tình yêu bày tỏ cho chúng ta chân lý và mang lại cho chúng ta sự tự do. Và đây là con đường dẫn đến hạnh phúc. Tự do giải thoát chúng ta, làm cho chúng ta vui tươi và hạnh phúc.
Đau buồn về nạn lạm dụng tính dục trong Giáo hội
Cuối buổi tiếp kiến, một lần nữa Đức Thánh Cha bày tỏ sự xấu hổ về thất bại của Giáo hội trong việc đối phó với nạn lạm dụng tình dục.
Nhận định về bản báo cáo liên quan đến hàng trăm ngàn trường hợp lạm dụng tính dục của các giáo sĩ ở Pháp từ những năm 1950, Đức Thánh Cha nói: “Đây là thời điểm xấu hổ”.
Ngỏ lời với các tín hữu nói tiếng Pháp, Đức Thánh Cha nói: “Tôi mong muốn bày tỏ với các nạn nhân sự đau buồn của tôi trước những tổn thương mà họ phải chịu”. Và ngài bày tỏ sự xấu hổ về thất bại lâu dài của Giáo hội trong việc đặt các nạn nhân ở trung tâm sự quan tâm của mình.
Đức Thánh Cha khuyến khích các giám mục Pháp và các bề trên các dòng tu “tiếp tục cố gắng hết sức để những thảm kịch tương tự sẽ không lặp lại”.
Đức Thánh Cha cũng bày tỏ “sự gần gũi và sự nâng đỡ hiền phụ” đối với các linh mục của Pháp khi họ trải qua thử thách “khó khăn nhưng chữa lành” này; đồng thời ngài kêu gọi tất cả tín hữu Công giáo Pháp “đảm nhận trách nhiệm của họ để đảm bảo rằng Giáo hội là ngôi nhà an toàn cho tất cả mọi người”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét