label

Thứ Tư, 6 tháng 4, 2022

Diễn văn của ĐTC tại buổi gặp chính quyền và ngoại giao đoàn của Malta

 

Diễn văn của ĐTC tại buổi gặp chính quyền và ngoại giao đoàn của Malta



Đức Thánh Cha nói với chính quyền và ngoại giao đoàn Malta: Tôi muốn mượn hình ảnh “hoa hồng gió”, mô tả gió theo bốn điểm chính của la bàn, để phác hoạ bốn ảnh hưởng thiết yếu đối với đời sống xã hội và chính trị của đất nước này.

Thưa Tổng thống,

Các thành viên Chính phủ và Ngoại giao đoàn, các nhà chức trách,

Các đại diện xã hội dân sự,

Quý bà và quý ông!

Tôi thân ái chào và cảm ơn Tổng thống về những lời tốt đẹp ngài thay mặt cho toàn thể người dân Malta ngỏ với tôi. Tổ tiên quý vị đã đón tiếp Tông đồ Phaolô trong hành trình thánh nhân đến Roma, đối xử với ngài và các bạn đồng hành “một cách nhân đạo hiếm có” (Cv 28, 2). Từ Roma đến đây, tôi cũng được trải nghiệm sự chào đón nồng nhiệt đó, một kho báu được người Malta truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Nhờ vị trí địa lý, Malta có thể được gọi là trái tim của Địa Trung Hải. Nhưng không chỉ bởi địa lý: trong hàng ngàn năm sự giao thoa của các sự kiện lịch sử và sự gặp gỡ của các dân tộc khác nhau đã biến hòn đảo này trở thành trung tâm của sức sống và văn hóa, tinh thần và vẻ đẹp, một giao lộ có thể đón nhận và hài hòa những ảnh hưởng từ nhiều nơi trên thế giới. Sự đa dạng về ảnh hưởng này làm cho chúng ta liên tưởng đến nhiều loại gió thổi qua đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà trong các bản đồ cổ đại về Địa Trung Hải, “hoa hồng gió” thường được mô tả gần đảo Malta. Tôi muốn mượn hình ảnh “hoa hồng gió”, mô tả gió theo bốn điểm chính của la bàn, để phác hoạ bốn ảnh hưởng thiết yếu đối với đời sống xã hội và chính trị của đất nước này.

Các luồng gió thổi qua các đảo Malta chủ yếu là từ phía tây bắc. Phương bắc gợi nhớ đến châu Âu, đặc biệt ngôi nhà của Liên minh châu Âu, được xây dựng như nơi ở cho một đại gia đình duy nhất liên kết trong việc duy trì hòa bình. Sự đoàn kết và hòa bình là món quà mà người dân Malta cầu xin Chúa mỗi khi quốc ca được cất lên. Thực vậy, lời cầu nguyện được viết bởi Dun Karm Psaila có nội dung: “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban sự khôn ngoan và lòng thương xót cho người cầm quyền, sức khỏe cho người làm việc, và đảm bảo sự thống nhất và hòa bình cho người dân Malta”. Hòa bình theo sau sự thống nhất và đi lên từ đó. Điều này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc làm việc cùng nhau, đặt sự gắn kết trước mọi sự chia rẽ, củng cố nguồn gốc và giá trị chung đã tạo nên sự độc đáo của xã hội Malta.

Nhưng để đảm bảo một sự chung sống xã hội tốt đẹp, việc củng cố cảm giác thuộc về thì chưa đủ; cần phải củng cố nền tảng của việc sống chung, dựa trên luật pháp và tính hợp pháp. Trung thực, công bằng, ý thức trách nhiệm và minh bạch là những trụ cột thiết yếu của một xã hội dân sự trưởng thành. Ước mong việc cam kết xóa bỏ bất hợp pháp và tham nhũng sẽ mạnh mẽ như ngọn gió thổi từ phương bắc, quét qua các bờ biển của đất nước. Cầu mong tính hợp pháp và sự minh bạch luôn được trau dồi trong đất nước, điều này có thể giúp loại bỏ tội ác và tội phạm, được thống nhất bởi thực tế là chúng không xảy ra dưới ánh sáng mặt trời.

Ngôi nhà châu Âu, vốn dấn thân thúc đẩy các giá trị công bằng và bình đẳng xã hội, cũng đi đầu trong các nỗ lực bảo vệ ngôi nhà thụ tạo rộng lớn hơn. Môi trường chúng ta đang sống là một hồng ân từ trời cao, như quốc ca của quý vị vẫn công nhận, bằng cách cầu xin Chúa gìn giữ vẻ đẹp của vùng đất này, người mẹ được trang điểm bằng ánh sáng rực rỡ nhất. Ở Malta, nơi vẻ đẹp rực rỡ của phong cảnh làm dịu bớt khó khăn, thụ tạo xuất hiện như một ân ban, mà giữa những thử thách của lịch sử và cuộc sống, gợi cho chúng ta vẻ đẹp của cuộc sống trên mặt đất. Do đó, nơi đây phải được bảo vệ khỏi lòng tham tiền bạc và đầu cơ xây dựng, điều không chỉ gây thiệt hại đến cảnh quan nhưng đến cả tương lai. Trái lại, bảo vệ môi trường và công bằng xã hội chuẩn bị cho tương lai, và là những cách tuyệt vời để làm cho những người trẻ đam mê chính trị lành mạnh, và bảo vệ họ khỏi những cám dỗ dửng dưng và không dấn thân.

Gió phương bắc thường kết hợp với gió đến từ phương tây. Thật vậy, quốc gia châu Âu này, đặc biệt là giới trẻ, chia sẻ lối sống và tư duy phương Tây. Từ đó, bắt nguồn những điều tuyệt vời - tôi nghĩ đến những giá trị của tự do và dân chủ - nhưng cũng có những nguy cơ cần cảnh giác, để khao khát tiến bộ không dẫn đến sự tách khỏi cội nguồn. Malta là một “phòng thí nghiệm phát triển hữu cơ” tuyệt vời, nơi mà tiến bộ không có nghĩa là cắt đứt cội nguồn với quá khứ nhân danh sự thịnh vượng giả tạo được quyết định bởi lợi nhuận, nhu cầu và tiêu dùng, cũng như quyền có mọi quyền. Để phát triển lành mạnh, điều quan trọng là phải giữ gìn ký ức và tôn trọng sự hòa hợp giữa các thế hệ, không để mình bị đồng hoá bởi sự công nhận giả tạo và thực dân hóa tư tưởng.

Nền tảng sự phát triển vững chắc là con người, tôn trọng sự sống và phẩm giá của mỗi người. Tôi biết người Malta dấn thân đón nhận và bảo vệ sự sống. Trong Sách Công vụ Tông đồ, người dân của đảo này được biết đến vì đã cứu nhiều người. Tôi khuyến khích quý vị tiếp tục bảo vệ sự sống từ khi bắt đầu đến khi kết thúc tự nhiên, nhưng cũng luôn bảo vệ sự sống ở mọi thời điểm khỏi sự vứt bỏ và lãng quên. Tôi đặc biệt nghĩ đến phẩm giá của những người lao động, người già và người bệnh. Và đối với những người trẻ, những người có nguy cơ vứt bỏ những điều tốt đẹp mà họ đang có mà đuổi theo những ảo tưởng để lại nhiều trống rỗng bên trong. Đây là hậu quả của chủ nghĩa tiêu thụ, thờ ơ trước nhu cầu của người khác và tai hoạ của ma túy, bóp nghẹt tự do bằng cách tạo ra cơn nghiện và lệ thuộc. Chúng ta hãy bảo vệ vẻ đẹp của sự sống!

Tiếp tục “hoa hồng gió”, chúng ta hướng về phương nam, nơi có nhiều anh chị em chúng ta đang tìm hy vọng. Tôi cám ơn chính quyền dân sự và người dân Malta vì sự chào đón dành cho họ nhân danh Tin Mừng, tính nhân văn và tinh thần hiếu khách đặc trưng của người Malta. Theo gốc từ Phê-nê-xi, Malta có nghĩa là “bến cảng an toàn”. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, trước sự gia tăng dòng người, nỗi sợ hãi và bất an đã tạo ra sự ngã lòng và thất vọng. Để tiếp cận tốt vấn đề di cư phức tạp, phải đặt điều này trong những viễn tượng rộng lớn hơn về thời gian và không gian. Về thời gian: hiện tượng di cư không phải là tình trạng nhất thời, nhưng đánh dấu thời đại chúng ta. Nó mang theo những gánh nặng của những bất công trong quá khứ, khai thác, biến đổi khí hậu, của những cuộc xung đột mà hậu quả là họ phải trả giá. Từ phía nam nghèo nàn và đông dân cư, hàng loạt người di chuyển đến phía bắc giàu có hơn: đây là một thực tế, và không thể bị bỏ qua bằng việc đóng cửa lỗi thời, bởi vì nó sẽ không tạo ra thịnh vượng và hội nhập. Từ quan điểm không gian, tình trạng khẩn cấp di cư ngày càng gia tăng - ở đây chúng ta nghĩ đến những người tị nạn từ Ucraina bị chiến tranh tàn phá - đòi hỏi những đáp ứng trên diện rộng và được chia sẻ. Không thể có chuyện một số quốc gia gánh vác tất cả vấn đề trong khi các quốc gia khác dửng dưng! Vì lợi ích riêng, các quốc gia văn minh không thể phê chuẩn những thỏa thuận ám muội với những kẻ bất lương bắt người khác làm nô lệ. Địa Trung Hải cần sự đồng trách nhiệm của châu Âu, để một lần nữa trở thành sân khấu mới của tình liên đới và không phải là tiền đồn của một vụ đắm tàu bi thảm của nền văn minh.

Nói đến việc đắm tàu, tôi nghĩ đến Thánh Phaolô, đã đến bờ biển này một cách bất ngờ trong chuyến vượt biển cuối cùng trên Địa Trung Hải và được cứu giúp. Rồi ngài bị rắn độc cắn, và bị cho là đã phạm tội sát nhân; tuy nhiên, ngay sau đó, ngài được coi là vị thần vì rắn độc không làm hại được ngài (Cv 28,3-6). Giữa hai thái cực này, cần chấp nhận sự thật trên hết là: Thánh Phaolô là một con người, cần được giúp đỡ. Con người là trên hết và đáng coi trọng trên tất cả: đây là những gì đất nước này đã dạy, nơi lịch sử được chúc lành bởi sự xuất hiện của vị Tông đồ bị đắm tàu. Nhân danh Tin Mừng mà Thánh Phaolô đã sống và rao giảng, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn và tái khám phá vẻ đẹp của việc phục vụ người cần được giúp đỡ. Ngày nay, trong khi  vượt Địa Trung Hải tìm sự an toàn, những người này phải đối mặt với nỗi sợ hãi và “câu chuyện về sự xâm lược”, và việc bảo vệ an toàn cho chính mình bằng mọi giá dường như là mục tiêu chính, chúng ta hãy giúp nhau để không coi người di cư như một mối đe dọa và không khuất phục trước cám dỗ xây dựng những cây cầu rút ván và dựng các bức tường. Người khác không phải là một loại virus mà chúng ta cần được bảo vệ, nhưng là một người cần được chào đón. Vì vấn đề đó, “lý tưởng Kitô luôn là lời mời gọi vượt qua sự nghi ngờ, sự ngờ vực đã ăn sâu, nỗi sợ mất quyền riêng tư, những thái độ phòng thủ mà thế giới ngày nay áp đặt lên chúng ta” (Esort. ap. Evangelii gaudium, 88). Chúng ta đừng để sự thờ ơ dập tắt ước mơ chung sống! Tất nhiên, chào đón là công việc khó khăn và đòi hỏi hy sinh. Đối với Thánh Phaolô cũng vậy: để cứu mình, trước tiên cần phải hy sinh hàng hóa của con tàu (Cv 27, 38). Nhưng những hy sinh vì một điều tốt đẹp hơn, cho sự sống của con người, là kho báu của Thiên Chúa!

Cuối cùng, có gió thổi từ hướng đông, thường thổi vào lúc bình minh. Homer gọi là “Euro” (Odissea V,379.423). Nhưng chính từ phía đông của châu Âu, từ phía Đông nơi ánh sáng đầu tiên phát sinh, bóng tối của chiến tranh đã đến. Chúng ta đã từng nghĩ rằng những cuộc xâm lược của các quốc gia khác, những cuộc giao tranh tàn bạo trên đường phố và những mối đe dọa từ nguyên tử là những ký ức đen tối của một quá khứ xa xôi. Tuy nhiên, những luồng gió băng giá của chiến tranh, vốn chỉ mang đến cái chết, sự huỷ diệt và hận thù, đã ập xuống cuộc sống của nhiều người và ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Và một lần nữa một số người quyền lực, đáng buồn là đã bị cuốn vào những tuyên bố lạc hậu về lợi ích quốc gia, đang kích động và gây ra những xung đột, trong khi dân chúng cảm thấy cần phải xây dựng một tương lai mà, hoặc sẽ cùng nhau, hoặc chẳng có tương lai nào cả. Giờ đây, đêm tối chiến tranh đã giáng xuống nhân loại, chúng ta đừng làm cho giấc mơ hòa bình tan biến.

Malta, nơi toả sáng rực rỡ giữa lòng Địa Trung Hải, có thể truyền cảm hứng cho chúng ta, bởi vì việc khôi phục vẻ đẹp khuôn mặt nhân loại  bị biến dạng vì chiến tranh là điều cấp thiết. Một bức tượng Địa Trung Hải tuyệt đẹp có niên đại hàng thế kỷ trước Chúa Kitô mô tả hòa bình như một phụ nữ, Eirene ôm sao Diêm Vương,  biểu tượng sự phong phú. Bức tượng nhắc nhớ chúng ta rằng hòa bình tạo ra thịnh vượng và chiến tranh chỉ tạo ra nghèo đói. Và đặc biệt trong bức tượng đó, hòa bình và thịnh vượng được miêu tả như một người mẹ đang ôm một trẻ thơ trong tay. Tình yêu dịu dàng của những người mẹ, những người mang lại sự sống cho thế giới, và sự hiện diện của phụ nữ là sự thay thế thực sự cho sự gian hiểm của quyền lực, dẫn đến chiến tranh. Chúng ta cần lòng trắc ẩn và sự quan tâm, chứ không phải những tầm nhìn ý thức hệ và những thứ mị dân, nuôi dưỡng bằng những lời lẽ thù hận và không quan tâm đến cuộc sống cụ thể của dân chúng.

Hơn sáu mươi năm trước, trong một thế giới bị đe dọa bởi sự hủy diệt, nơi luật pháp bị quy định bởi những xung đột ý thức hệ và lý luận tàn nhẫn của các khối, một giọng nói khác đã được cất lên từ lưu vực Địa Trung Hải, chống lại việc đề cao tư lợi bằng một lời kêu gọi bước nhảy ngôn sứ nhân danh tình huynh đệ phổ quát. Đó là tiếng nói của Giorgio La Pira, người đã phát biểu rằng: “Hoàn cảnh lịch sử mà chúng ta đang trải qua, sự xung đột về lợi ích và ý thức hệ làm rung chuyển nhân loại làm mồi cho tính trẻ con không thể tin nổi, khôi phục cho Địa Trung Hải một trách nhiệm cốt lõi. Đó là xác định lại một Tiêu chuẩn đâu là nơi con người bị bỏ cho sự điên cuồng và thiếu điều độ để có thể nhận ra chính mình” (Bài phát biểu tại Đại hội Văn hóa Địa Trung Hải, ngày 19 tháng 2 năm 1960). Đó là những lời mang tính thời sự: chúng ta rất cần một “sự tiết chế của con người” khi đối mặt với sự hung hăng ấu trĩ và dã tâm hủy diệt đang đe dọa chúng ta, trước nguy cơ xảy ra một cuộc “chiến tranh lạnh mở rộng” có thể bóp nghẹt cuộc sống của toàn thể các dân tộc và các thế hệ! Thật không may, “sự ấu trĩ” vẫn không biến mất. Nó tái xuất hiện một cách áp đảo trong sự dụ dỗ của chế độ chuyên quyền, trong các đế quốc mới, trong sự xâm lược lan rộng, trong việc không có khả năng xây dựng cây cầu và rời bỏ những người nghèo nhất. Từ đây, cơn gió chiến tranh lạnh bắt đầu thổi qua, một lần nữa được tiếp thêm sức mạnh trong những năm qua. Đúng vậy, cuộc chiến đã được chuẩn bị một thời gian với các khoản đầu tư lớn và các thương vụ mua bán vũ khí. Và thật đáng buồn khi thấy lòng nhiệt thành đối với hòa bình, nảy sinh sau Thế chiến thứ hai, đã suy yếu như thế nào trong những thập kỷ gần đây, cũng như buồn khi thấy hành trình của cộng đồng quốc tế, với một số ít cường quốc tiến lên vì lợi ích riêng, tìm kiếm không gian và khu vực ảnh hưởng. Và vì vậy, không chỉ hòa bình, mà nhiều vấn đề lớn, chẳng hạn như cuộc chiến chống nạn đói và bất bình đẳng, trên thực tế đã bị loại khỏi các chương trình nghị sự chính trị chính.

Nhưng giải pháp cho các cuộc khủng hoảng của mỗi bên là quan tâm đến tất cả, bởi vì các vấn đề toàn cầu đòi hỏi các giải pháp toàn cầu. Chúng ta hãy giúp nhau lắng nghe khát vọng hòa bình của dân chúng, chúng ta hãy làm việc để đặt nền móng cho một cuộc đối thoại ngày càng rộng lớn hơn, chúng ta hãy trở lại gặp gỡ nhau trong các hội nghị quốc tế vì hòa bình, nơi chủ đề giải trừ quân bị là trọng tâm, với cái nhìn hướng đến các thế hệ sau! Và những khoản tiền lớn tiếp tục được dành vũ khí sẽ được chuyển sang phát triển, sức khỏe và dinh dưỡng.

Vẫn nhìn về phía đông, cuối cùng tôi muốn đề cập đến miền láng giềng Trung Đông, được phản ánh trong ngôn ngữ của đất nước này, vốn hòa hợp với những ngôn ngữ khác, như thể gợi nhớ khả năng của người Malta trong việc tạo ra sự chung sống tốt đẹp, trong một loại chung sống giữa những khác biệt. Đây là những gì Trung Đông cần: Libăng, Syria, Yemen và các bối cảnh khác bị chia cắt bởi các vấn đề và bạo lực. Ước mong Malta, trái tim của Địa Trung Hải, tiếp tục tạo ra nhịp đập của hy vọng, quan tâm đến cuộc sống, chào đón những người khác, khao khát hòa bình, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, Đấng có tên là hòa bình.

Il-Mulej ibierek lil Malta! [Xin Chúa chúc lành cho Malta!]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét