LINH MỤC GIÁO PHẬN TĨNH TÂM NĂM: NGÀY THỨ 4
(HY SINH TRONG ĐỜI TU & ĐỨC MARIA)
Mở đầu cho ngày tĩnh tâm thứ 4, anh em linh mục cùng nhau đọc Kinh Thần vụ buổi sáng và sau đó có 30 suy niệm. Cha Đại diện Micae Lê Xuân Tân đã giúp anh em suy niệm với đề tài: THƯ CỦA MỘT CHA XỨ MIỀN QUÊ, VÙNG NÚI.
Từ lá thư của một Linh mục phục vụ ở vùng núi nước Ý gửi cho ĐTC Phanxico, Cha Đại diện Micae đã giúp anh em nhìn lại bản thân mình xem mỗi linh mục có phải là hình ảnh Linh mục giống Chúa Kito không? Có trở thành Linh mục khiêm tốn, gần gũi và với lòng thương xót không? Một mục tử có MÙI chiên như ĐTC Phanxico kêu gọi hay không? Chúng ta cần trở thành linh mục để ngửi thấy mùi chiên này, mùi đó cũng là hương thơm thực sự của đoàn chiên. Nhiều khi chúng ta chạy theo công việc quản trị và hành chánh quá nhiều, mà cuối cùng lại bỏ giáo dân qua một bên. Họ chính là đoàn chiên nhỏ bé đã được trao phó cho con, mà con lại bỏ rơi họ, để họ tự xoay sở.
Ý tưởng tiếp theo mà Cha Micae đề cập dựa theo lá thư này đó là tình trạng thiếu vắng Tình Cha. Người ta nói rằng xã hội hiện đại thiếu hẳn tình cha tình mẹ, và đôi khi chính linh mục cũng từ chối tình cha thiêng liêng này. Tuy nhiên, Nếu đôi khi, với tư cách là mục tử, ta không có mùi chiên, thì ta vẫn luôn cảm động khi thấy đoàn chiên không mất đi mùi của người mục tử.
Thật là đẹp làm sao khi biết rằng đoàn chiên không bỏ rơi chúng ta, để chúng ta lẻ loi một mình. Chính đoàn chiên là thước đo cho thấy chúng ta có phải là một mục tử nhân lành, chân chính đối với họ không, và tình cờ, bất hạnh người mục tử đi sai đường và lạc mất, thì chính đoàn chiên gìn giữ và nắm lại người mục tử trong tay họ.
Sau cùng Cha Micae kết luận: Ước gì anh em linh mục chúng ta có tấm lòng của một người cha, của một người mục tử nhân lành, sẵn sàng tha thứ, yêu thương mọi người để phục vụ mà không loại trừ ai; phục vụ đời sống cụ thể về vật chất, về thiêng liêng; cũng như phục vụ qua việc biết lắng nghe, cảm thông những khó khăn, những lo âu, những ước vọng, … của mọi người, chứ không chỉ là phục vụ cho công việc. cho chương trình của mình mà thôi.
Sau giờ ăn sáng, Đức cha Giảng phòng tiếp tục triển khai đề thứ 6 với chủ đề HY SINH TRONG ĐỜI TU. Sau đây là nội dung bài chia sẻ của ngài.
Bài 7
HY SINH TRONG ĐỜI TU
Lời Chúa: 1Cr 9, 24-27
24 Anh em chẳng biết sao: trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng.25 Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát.26 Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí.27 Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.
1. Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC HY SINH
Trong một xã hội tiêu thụ và thực dụng như hiện nay, nhất là trào lưu “thế tục hóa” đã và đang tạo ra những thách đố mới cho đời sống đức tin của các kitô hữu. Ngay cả trong đời tu, những tác động của sự tục hóa đang len lỏi dưới nhiều hình thức, đưa đến đời sống tâm linh hời hợt và yếu kém trong việc đào luyện bản thân.
Khi đón nhận dòng nước Rửa Tội, chúng ta được mời gọi sống thánh thiện: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5, 48). Tuy nhiên, hành trình nên thánh không phải là một hành trình dễ dàng, vì phải “chiến đấu qua cửa hẹp mà vào Nước Trời” (Lc 13, 24). Để có thể chiếm được phần thưởng không bao giờ hư nát trong “cuộc chạy đua trên thao trường” của cuộc đời, thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Côrintô mà chúng ta vừa nghe, đã chia sẻ về những cảm nghiệm “phải kiêng kỵ đủ điều” (1 Cr 9, 25), “bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng” (c. 27).
Để trở nên khí cụ trong tay Chúa, chúng ta cần chấp nhận tự hủy mình, noi gương Chúa Giêsu, Đấng đã “hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên thập giá” (Pl 2, 8). Để có thể trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành, chúng ta cần học tinh thần từ bỏ hy sinh và hiến thân trọn vẹn như chính Ngài. Đức Phanxicô, trong Tông Huấn Gaudete et Exsultate, đã nói đến việc thực hiện các việc bình thường một cách phi thường, như Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã sống giây phút hiện tại với đầy tình thương. “Được ân sủng Thiên Chúa hướng dẫn, bằng nhiều cử chỉ nhỏ bé, chúng ta xây dựng nên sự thánh thiện mà Thiên Chúa đã muốn cho mình, không phải tự sức mình, nhưng như “những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1Pr 4, 10).
Như thế, cùng với Chúa Giêsu, chúng ta dâng những công việc nhỏ bé và hèn mọn trong âm thầm như lễ vật dâng lên Chúa. Lễ vật ấy là hoa trái của việc từ bỏ chính mình và việc luôn ý thực sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời.
Đức Cha G. B. Bùi Tuần thì mượn hình ảnh chiếc kim đồng hồ luôn đi về phía trước bằng những di chuyển hết sức nhỏ để ví von những hy sinh âm thầm khiến đời linh mục có ý nghĩa. Chúng ta cũng hãy tiến về với Chúa, tiến về quê trời, trên nẻo đường trần thế, bằng những việc hy sinh nhỏ bé, âm thầm. Nhỏ như một lời cầu nguyện, một việc hãm mình, như một lời chào, như một nụ cười… Những việc làm ấy nếu được thực hiện với lòng yêu mến và khiêm tốn thì sẽ giúp chúng ta nên thánh trong từng ngày sống. Yêu mến, vì cậy dựa vào niềm tin như thánh Phaolô xác tín: “Tôi biết tôi tin vào ai” (2Tm 1, 12). Khiêm tốn, vì luôn cậy dựa vào lòng Chúa xót thương: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm” (Tv 51,3).
2. TỪ BỎ CHÍNH MÌNH
Chẳng ai có thể đi một lúc hai con đường. Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn. Chính những lựa chọn ấy đan kết làm thành đời riêng của mỗi người. Có những điều xấu phải từ bỏ như tật nghiện thuốc lá, hút sách, trai gái… Cũng có những điều tốt phải bỏ để chọn một điều tốt hơn như chọn chỗ làm, chọn bậc sống… Nếu từ bỏ vì tình yêu, vì hy sinh sẽ làm cho chọn lựa của chúng ta có ý nghĩa hơn, chẳng hạn người mẹ thức trắng đêm bên giường bệnh để chăm sóc cho con.
Từ bỏ đòi hỏi phải chọn lựa. Từ bỏ luôn làm ta đau đớn. Giống như người bệnh cần cắt bỏ khối u, thì đời người kitô hữu phải là những tháng ngày trên giường bệnh. Điều đầu tiên cần nhớ là con người yếu hèn của chính mình, vì như tác giả sách Khôn Ngoan viết: “Lạy Chúa, thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ đất này làm linh hồn trĩu xuống” (Kn 9, 15). Câu nói ấy diễn tả một cách rõ rệt tình trạng thực của chúng ta. Để có thể nhận ra mình yếu hèn, để có thể xác tín Chúa là quan trọng nhất trong cuộc đời mình, thì chúng ta phải vượt qua nhiều trở ngại, phải chiến đấu kiên trì và bền bỉ. Và trở ngại lớn nhất là vượt qua chính mình, là thắng được cái tôi của mình.
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện nhỏ:
Một người đến gặp Đức Phật, hai tay ôm hai bó hoa. Đức Phật nhìn anh ta và nói: “Quăng nó đi!”
Anh ta sửng sốt, không hiểu tại sao Đức Phật lại bảo mình quăng hoa đi. Nhưng anh ta đoán: có lẽ Đức Phật bảo mình quăng bó hoa anh cầm bên tay trái, vì đưa cho ai một cái gì đó bằng tay trái là cử chỉ bất lịch sự. Thế là anh vứt bó hoa bên tay trái xuống đất.
Đức Phật vẫn ra lệnh: “Quăng nó đi!”
Anh ném luôn bó hoa đang cầm bên tay phải và đứng với hai bàn tay trơ trụi trước mặt Đức Phật. Một lần nữa, Đức Phật lại mỉm cười và bảo: “Quăng nó đi!”
Hết sức lúng túng, anh ta hỏi lại: “Thưa ngài, con phải quăng cái gì nữa?”
Đức Phật trả lời: “Không phải hoa, con ạ. Nhưng là chính người cầm hoa”.
Đó cũng là bài học của chúng ta. Từ bỏ chính mình là ý thức mình chỉ là thụ tạo, và để cái tôi của mình hoàn toàn tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa. Từ bỏ là cách duy nhất để giữ cho mình được toàn vẹn, vì “Ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16, 25). Đức Đáng Kính Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận nhắn nhủ: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước”. “Dù có ra khỏi nhà, đi phương xa vạn dặm mà cứ mang theo tất cả tật xấu, cả con người cũ, thì có khác gì ở nhà đâu?”.
Từ bỏ trọn vẹn như lời cầu nguyện của R. Tagore:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
Nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
Nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
Đến với Người trong mọi sự,
Và dâng người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
Nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
Nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
Và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
3. Ý THỨC SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA
3.1. Ý THỨC SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA QUA CHÚA THÁNH THẦN
Khi chọn lựa ơn gọi linh mục, chúng ta được mời gọi “ra khỏi chính mình” để trong Chúa Kitô, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta đến với Chúa Cha và những người khác. Chương trình đào tạo khi chưa làm linh mục lẫn chương trình đào tạo thường kỳ sau khi chịu chức đều giúp người linh mục phải đặc Chúa Kitô làm trung tâm đời sống và sứ vụ, để có thể sống tự do cho Thiên Chúa và cho người khác một cách có ý thức.
Một linh mục lớn tuổi chia sẻ câu chuyện sau:
“Bốn giờ sáng đang quơ tay quơ chân làm mấy đường quyền thì chuông reo. Tôi nghĩ: chắc lại kẻ liệt rồi đây. Có lẽ bà Hai quá. Bả lúc này ốm liệt. Mở cửa, tôi thấy một thanh niên xách một cái túi cói. Anh lí nhí:
- Thưa… thưa ông cố
- Con đi đâu vậy. Vào đây, có chuyện gì không?
- Dạ con muốn xưng tội. Suốt cả đêm con không ngủ được.
- Sao vậy con?
Anh rút trong túi cói ra một con gà rồi kể: “Hồi hôm, có con gà nhà ai lạc sang nhà con. Con bảo cả nhà đóng cửa lại định bắt nấu cháo. Bắt được rồi hai vợ chồng cãi nhau kịch liệt. Vợ con đòi nhốt sáng đem thả. Con đòi làm thịt với lý lẽ: “của trời cho mà tội gì đem thả”. Vợ cãi lại. Thế là con phang cho vợ một cán chổi. Bả khóc bù lu bù loa. Con cũng không dám làm thịt nữa. Nghĩ lại thấy mình bậy quá nên con mang con gà ra cho ông cố, xin ông cố trả nó cho người ta rồi tha tội cho con”.
Bỗng nhiên tôi ứa nước mắt. Hoạt động của Chúa Thánh Thần ở đây chứ kiếm ở đâu. Giải tội cho anh xong, tôi chuẩn bị qua nhà thờ làm lễ.
Trong thánh lễ sáng hôm đó, cả nhà thờ ngơ ngác khi tôi loan báo có giữ một con gà đi lạc, ai là khổ chủ xin đến nhận. Thế là chú gà được về với chủ, con anh kia thì về với Chúa. Chúa Thánh Thần thiệt là hay!
3.2. Ý THỨC SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA QUA LỜI CỦA NGƯỜI
Trong đời sống thiêng liêng, linh mục phải dành một vị trí ưu việt cho Lời Chúa. Đây là sứ mạng hàng đầu trong thừa tác vụ linh mục, vì linh mục không chỉ là chứng nhân, mà còn là sứ giả và người truyền bá đức tin. Trước khi trở thành lời rao giảng, Lời Chúa phải được đón nhận thâm sâu trong lòng bằng cầu nguyện, học hỏi nghiêm túc và cập nhật kiến thức. Để trung thực, Lời Chúa phải được truyền đạt một cách rõ ràng, dễ hiểu, làm nổi bật sứ điệp Tin Mừng của Đức Kitô, giúp mọi người hoán cải và sống thánh thiện.
Là cộng sự của giám mục và là người được giám mục ủy nhiệm, linh mục còn có trách nhiệm điều phối, hướng dẫn các hoạt động huấn giáo trong cộng đoàn, vì đây là một công cụ ưu tiên trong việc giáo dục và trưởng thành đức tin. Việc huấn giáo này phải đặt trong sự hiệp thông với giám mục bản quyền, với Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ. Là thầy và là nhà giáo dục đức tin, linh mục phải lo sao để việc huấn giáo giữ một vị trí ưu tiên trong chương trình giáo dục Kitô giáo, chẳng những tại giáo xứ mà còn trong mỗi gia đình, chẳng những trong việc huấn luyện các phong trào tông đồ mà còn các giới: thiếu nhi, thanh thiếu niên, người trưởng thành và người cao tuổi…
3.3. Ý THỨC SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA QUA CÁC BÍ TÍCH
Việc cử hành sốt sắng các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Thống Hối là cơ hội giúp chúng ta nhận biết với lòng khiêm nhường những mỏng giòn và tội lỗi của mình, và cảm nghiệm lòng thương xót nhân từ của Chúa. Bí Tích Thánh Thể giúp chúng ta càng ngày càng kết hợp mật thiết với Chúa, còn Bí Tích Thống Hối giúp chúng ta hiểu rõ “ý nghĩa của việc khổ chế và kỷ luật nội tâm, tinh thần hy sinh và từ bỏ, sự chấp nhận khó nhọc và thánh giá”.
Ý thức sự hiện diện của Chúa được thể hiện khi chúng ta cử hành các Bí tích, nhất là hy tế Thánh Thể, một cách sốt sắng, không vội vã, tuân giữ nghiêm túc luật phụng vụ và luật chữ đỏ. Đây thực sự là bài giáo lý rất cụ thể, sống động, giúp các tín hữu nhận ra vẻ đẹp và sự thánh thiêng của các cử hành phụng vụ. Hãy nhớ, hành động và cách chúng ta cử hành phụng vụ, hoặc nâng đỡ đời sống đức tin của mọi tín hữu hoặc làm mất đi sự thánh thiêng vốn có, gây nguy hại cho đức tin của cả cộng đoàn.
Việc linh mục siêng năng chầu Mình Thánh Chúa trước nhà Tạm, hoặc với cộng đoàn hoặc cá nhân, cũng là những bài giáo lý sống động về sự hiện diện của Chúa, vừa là nguồn sức mạnh thiêng liêng nâng đỡ chính mình, vừa là tấm gương cho người khác. Chúng ta hãy lắng nghe chia sẻ của một giáo dân có thói quen dự lễ và chầu Thánh Thể mỗi ngày:
Tôi thường tham dự thánh lễ mỗi buổi sáng, và sau thánh lễ, tôi có thói quen ở lại với Chúa Giêsu Thánh Thể nửa tiếng trước khi về nhà đi làm.
Trong những giây phút thinh lặng đó, tôi chỉ có thể gặp gỡ Chúa khi tôi chìm xuống đáy sâu của tâm hồn. Lúc đó, tôi mới thấy rõ chính mình, với những yếu hèn và thiếu sót, để xin Chúa thứ tha và giúp tôi luôn sửa đổi. Chúa cho tôi thấy rõ tâm hồn mình như thế, như nhìn xuống dòng suối trong vắt, tôi thấy từng viên sỏi như những thiếu sót yếu đuối của chính mình.
Trong những giây phút thinh lặng đó, tôi nghe rõ từng nhịp đập của trái tim hòa với nhịp đấp của Trái Tim Thánh Thể, trào dâng một niềm mến yêu tôn thờ sâu xa.
Thinh lặng trong yêu mến, chiêm ngắm và tôn thờ là lời cầu nguyện tuyệt vời nhất. Có những yêu mến chỉ nhìn bằng mắt là đã truyền thông cho nhau tất cả. Với tôi, Chúa Giêsu luôn sử dụng đôi mắt nhiều hơn lời nói, bởi Người thổ lộ tâm tình và chỉ bảo tôi nhiều điều. Trong thinh lặng, tôi tâm sự với Người và lắng nghe Người nói với tôi. Thinh lặng trước Thánh Thể đã là yêu mến, chỉ nguyên yêu mến thôi đã là cầu nguyện rồi, đồng thời trong thinh lặng, tôi cảm tạ, ngợi khen, tôn vinh Chúa.
Trong thinh lặng, tôi hiểu tôi không bao giờ cầu nguyện một mình, mà cùng với mọi người trên trời dưới đất, cùng vạn vật muôn loài không ngừng chúc tụng Chúa…
3.4. Ý THỨC SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA QUA VIỆC BỔN PHẬN
Cần phải nhìn toàn thể cuộc đời mình như một sứ mạng, bằng cách lắng nghe tiếng Chúa và nhận ra dấu chỉ của Chúa qua từng biến cố cuộc đời. Hãy luôn xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho biết Đức Giêsu mong đợi gì nơi chúng ta, trong mọi lúc của cuộc sống, qua mọi công việc bổn phận chúng ta làm, với tinh thần cởi mở và vui tươi, là kết quả của sự kết hợp với Thiên Chúa và hy sinh.
Đối diện với một thế giới tục hóa và hưởng thụ, việc chu toàn bổn phận phải được đặt nền tảng trên việc kết hợp cá vị với Đức Kitô, nhờ đó, người linh mục mới có thể sống đức ái mục tử với lòng quảng đại, hiệp thông với tất cả mọi người, nhất là với linh mục đoàn. Đức Biển Đức XVI nhắn nhủ chúng ta:
“Hiệp thông với Đức Kitô, đối thoại thân mật với Đức Kitô là một ưu tiên mục vụ cơ bản trong mọi hoạt động của chúng ta đối với người khác… Bổn phận của linh mục là cầu nguyện, với tư cách là người đại diện cho những ai không biết cầu nguyện và không có thời giờ cầu nguyện”.
3.5. Ý THỨC SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA NƠI NGƯỜI KHÁC
“Chúng ta không được nhìn một nông dân nghèo hay một phụ nữ nghèo theo dáng vẻ bên ngoài của họ, hay cảm nghĩ của chúng ta về trình độ hiểu biết của những người ấy, nhất là nhiều khi hầu như họ không có bộ mặt và khối óc của những người được ăn học. Nhưng nếu nhìn những người đó dưới ánh sáng của đức tin, chị em sẽ thấy rằng họ là hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo, Đấng chẳng còn dáng vẻ của một con người trong cuộc thương khó, Đấng đã bị lương dân coi là điên rồ, bị người Do-Thái coi là cớ vấp phạm”.
Trong Thủ Bản Tự Thuật, Thánh Têrêsa Hài Đồng kể:
“Lần khác con đi giặt, có một chị cứ mỗi lần nâng khăn lên thì chị lại làm bắn nước dơ vào mặt con, phản ứng đầu tiên là con muốn lùi ra xa rồi lau mặt để lưu ý chị làm nhẹ tay một chút, nhưng con lại nghĩ ngay làm như thế là dại, vì bỏ mất một kho tàng quý báu người ta vừa tặng mình một cách rộng tay, vì thế con cứ đứng yên chịu trận. Con hết sức ước ao được chị bắn nhiều nước dơ hơn, đến nỗi cuối cùng con lại thích cái kiểu xả nước mới lạ này, con định bụng lần sau sẽ trở lại nơi đất lành này để khai thác kho tàng quý giá ấy.
Mẹ yêu mến, con là một tâm hồn thơ bé chỉ biết dâng cho Chúa những lễ vật nhỏ mọn như thế thôi, những việc nhỏ mọn đó làm cho tâm hồn con được bình an thư thái; tuy vậy nhiều khi con cũng sơ sót bỏ qua, dẫu còn nhiều sơ sót, con vẫn không nản lòng, con đành hưởng ít bình an trong lần này để cố gắng thức tỉnh hơn trong lần khác”.
GỢI Ý SUY TƯ – CẦU NGUYỆN
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nói: “Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh”. Tôi có ý thức rằng từng hy sinh nhỏ làm cho đời tu của tôi nên thánh không? Hy sinh càng âm thầm, thánh ý Chúa càng được thực hiện trọn vẹn trong cuộc đời tôi. Hãy suy nghĩ xem tôi đã có tinh thần hy sinh thế nào?
Lạy Chúa Giê su,
Xin cho con dám ra khỏi mình,
Để nhận ra mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa
Để can đảm chọn lựa
Chính Chúa là gia nghiệp
và gia tài duy nhất của đời con.
Xin Chúa giúp con biết từ bỏ mỗi ngày
Và đón nhận mọi sự trong tình yêu.
Xin giúp con. Amen
Trong giờ triển khai bài Tu đức, Đức Giám mục Giáo phận tiếp tục trình bày chủ đề Định vị và Định hướng. Tiếp nối với ý tưởng hôm qua, ngài trình bày chi tiết mỗi Linh mục là môn đệ Chúa yêu cần phải định hướng cho hành trình ơn gọi linh mục ở phía trước và phải ý thức rõ những ý tưởng sau:
1/ Tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly (Ga 13,23): Đó là hình ảnh của người môn đệ lắng nghe tiếng nói của trái tim, lắng nghe niềm tâm sự của Chúa Giêsu, trước cuộc khổ nạn – Một tương quan như tương quan giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha “trong cung lòng” (Ga 1,18)
2/ Cùng Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Giêsu (Ga 19,26-27) và nhận được hai hồng ân: (1) Hồng ân thứ nhất là trở nên người con của Mẹ Maria - người con mà Mẹ Maria sinh ra từ mầu nhiệm Thánh giá Chúa Giêsu. Kể từ giờ đó ngài đón nhận Đức Mẹ về trong cuộc sống của mình để trong cuộc sống của Người Môn Đệ Chúa Yêu không bao giờ vắng bóng Mẹ Maria. (2) Hồng ân thứ hai, Ngài trao ban Thần khí, Ngài trao ban Thánh thần, hơi thở của Đức Giêsu lúc bấy giờ chính là Thánh Thần. Thánh Thần được trao ban từ cái chết của Đức Giêsu. “Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19,30). Hơi của Ngài được tiếp nối, được diễn tả khi cạnh sườn của Ngài được khai mở, máu và nước chảy ra, nước Thánh Thần. Người môn đệ khi chứng kiến máu và nước từ cạnh sườn chảy ra thì người môn đệ đã la lên: “Tôi đã thấy. Tôi làm chứng và chứng của tôi là chứng thực, và có Chúa làm chứng cho tôi là tôi nói thực để cả anh em nữa cũng tin” (Gn 19,35).
3/ Là tông đồ đầu tiên tin Chúa đã sống lại “Tôi đã thấy và tôi tin” (Ga 20,8): Có thể hiểu Người Môn Đệ Chúa Yêu không chỉ tin Đức Giêsu, tin vào những lời Đức Giêsu đã nói, tin rằng Đức Giêsu là Đấng Đức Chúa Cha sai đến, tin Đức Giêsu là Đấng có khả năng ban sự sống đời đời; mà còn tin ở mức độ cao nhất là tin rằng Đức Giêsu là “Chúa” và là “Thiên Chúa” như lời Tôma tuyên xưng trước Đấng Phục sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.” (Ga 20,28). Trước ngôi mộ trống, người ta nhận ra phẩm chất của Người Môn Đệ Chúa Yêu về sự gắn bó với Chúa Giêsu. Trình thuật cho thấy môn đệ này: đến trước, thấy trước và tin trước.
4/ Sống chan hòa trong Hội Thánh (Ga 21,7; 21, 3-6; Cv 3,1; 4,18-22): Chương 21 phúc âm Gioan, Người Môn Đệ Chúa Yêu nói với Phêrô ‘Chúa đó’. Thái độ tế nhị của Người Môn Đệ Chúa Yêu chan hòa trong cộng đoàn các Tông đồ. Trong Hội Thánh, Người Môn Đệ Chúa Yêu nâng đỡ, không những nâng đỡ anh em mình, mà đặc biệt nâng đỡ bề trên của mình.
5/ Hướng về ngày Chúa quang lâm (Ga 21,20-23): Chúa nói : “Nhưng Thầy muốn nó (Người môn đệ Chúa Yêu) còn tồn tại cho đến ngày Thầy trở lại thì việc gì đến con”. Chúa chỉ nói Người Môn Đệ Chúa Yêu tồn tại cho đến ngày Chúa trở lại. Vâng chúng ta thấy rất rõ, những ai gắn bó với mầu nhiệm khổ nạn của Chúa, với Thánh Giá của Chúa, thì đón nhận Đức Mẹ và Thánh Thần. Những ai sống trong đức tin của Phêrô, những ai nâng đỡ anh em, đặc biệt nâng đỡ Hội Thánh trong những lúc gặp khó khăn thử thách, người đó luôn luôn như là dấu chỉ hồng ân Chúa ban cho Hội thánh ; để hiện diện hết thế hệ này đến thế hệ kia cho đến ngày Chúa trở lại!
Đức cha kết luận: Hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể - cử hành Thánh Thể và Tôn sùng Thánh Thể hàng ngày. Đây là cơ hội ta định vị và định hướng cho cuộc hành trình của chức vụ linh mục cho đến khi ta thốt lên: “Mọi sự đã hoàn tất, lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” - Thánh lễ cuộc đời trần thế đã xong, trong bính an ta bước qua ngưỡng cửa để tiến vào cuộc sống vĩnh cửu.
Buổi chiều, Đức cha Giảng phòng kết thúc những chia sẻ với chủ để : Đức Maria.
Sau đó, Cha Tổng Đại diện thay mặt Đức cha Giáo phận và quý cha cám ơn Đức cha Giảng phòng đã ưu ái dành thời gian cho anh em linh mục Long Xuyên trong 4 ngày vừa qua với những chia sẻ rất đơn sơ nhưng sâu sắc.
Buổi tối, Quý Đức cha và quý cha cùng nhau dâng Thánh lễ Tạ ơn và Cầu bình an cho Giáo phận tại NTCT Long Xuyên.
Bài kết thúc
ĐỨC MARIA
Lời Chúa: Lc 1, 35-38
35 Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; 37 vì không có việc gì mà Chúa không làm được". 38 Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”.
Trong hành trình đức tin, Đức Maria chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc đời của chúng ta. Bởi lẽ, Mẹ là mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta bằng một đời sống hoàn toàn phó thác, tin tưởng và yêu mến Chúa. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Chúng ta hãy luôn dành cho Mẹ Maria một chỗ trọng trong lòng chúng ta. Qua Mẹ, tất cả chúng ta đều nhận ra mình là con Thiên Chúa. Nơi Mẹ, chúng ta học được lòng trông cậy. Với Mẹ, chúng ta học được đức tin và sự cầu nguyện. Anh chị em hãy để Mẹ Maria dẫn đưa tới cùng Chúa Giêsu. Dựa vào những lời ấy của Đức Thánh Cha, chúng ta suy niệm vài bài học nhỏ.
Lạy Mẹ là Mẹ Chúa Trời
Mà Mẹ lại cũng Mẹ loài người ta
Cúi xin xuống phước hà sa
Lắng nghe con cái thiết tha khẩn cầu
Này con quỳ gối cúi đầu
Trước bàn thờ Mẹ xiết bao lời nguyền
Xin cho con được bình yên
Giữ gìn ơn thánh, vẹn tuyền thủy chung
Con xin cảm tạ muôn trùng
Vì con biết Mẹ sẵn lòng với con
Còn trời đất, còn nước non
Con còn cầu khẩn, Mẹ còn đoái thương.
1. MẸ MARIA, MẸ CỦA CÁC LINH MỤC
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông Huấn Pastores dabo vobis dạy:
“Tất cả mọi khía cạnh trong việc đào tạo linh mục đều có thể đem gán cho Đức Maria, như một người phàm, hơn tất cả mọi người phàm khác, để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa; Đức Maria đã hóa nên nữ tì và môn đệ của Lời Chúa đến độ cưu mang trong lòng mình và trong dạ mình Ngôi Lời làm người để rồi ban tặng Ngài cho nhân loại; Đức Maria đã được mời gọi để trở thành nhà giáo dục của vị linh mục duy nhất và vĩnh cửu, và vị linh mục này đã tự nguyện sống ngoan ngùy và đã tùng phục quyền làm mẹ của Ngài. Nhờ gương sáng và sự chuyển cầu của Ngài, Đức Trinh Nữ vẫn tiếp tục chăm lo cho các ơn gọi và đời sống linh mục trong Giáo Hội được hung thịnh. Chính vì thế, chúng ta được mời gọi vun trồng lòng sùng kính dịu hiền và bền vững đối với Đức Trinh Nữ Maria, noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ và năng cầu nguyện với Mẹ”.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cũng dạy: “Hãy vào trường Đức Maria để học biết yêu thương và bước theo Đức Kitô trên hết mọi sự”. Thật vậy, tại trường của Mẹ Maria, chúng ta học biết đặt Chúa Kitô vào chỗ nhất và là trung tâm cuộc đời mình; chúng ta học biết thinh lặng, biết lắng nghe và sẵn sàng phục vụ.
Là linh mục, chúng ta phải tìm thấy nơi Đức Trinh Nữ Maria gương mẫu tuyệt vời về tâm tình vâng phục, vì nhờ Chúa Thánh Thần dẫn dắt, Mẹ đã hiến toàn thân cho mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại. Các linh mục phải lấy tình con thảo thành kính tôn sùng và yêu mến Đấng là Mẹ của vị Thượng Tế đời đời, là Nữ Vương các Tông đồ, và là nguồn trợ lực cho sứ vụ linh mục.
2. MẸ MARIA, THẦY DẠY VỀ LÒNG TIN TƯỞNG, CẬY TRÔNG VÀ YÊU MẾN
2.1. LÒNG TIN SẮT ĐÁ CỦA MẸ
Trong Kinh thánh, người ta có thể liệt kê ra một danh sách dài những người nghèo của Giavê làm mẫu gương cho chúng ta về lòng tin tưởng sâu xa vào Chúa: Abraham, Môsê, Êlia, Giêrêmia, Isaia, Giacaria, Êlizabeth, Giuse, Maria hay các Tông Đồ… Nhưng không ai trong số các ngài có thể trổi vượt hơn Đức Maria.
Quả thật, cuộc đời Mẹ đẹp vì lòng tin. Lời nói của Mẹ với thiên thần ngày Truyền Tin: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 3, 38) hẳn là âm vang một lòng tin sâu lắng, một lòng tin được đan kết bằng những bước chân mãi mãi lên đường, một lòng tin được dệt bằng những tiếng “xin vâng”. Và lời “xin vâng” trọn vẹn nhất là lời “xin vâng” trên đồi Canvê khi Mẹ dâng con trên thập giá: lời “xin vâng” gói trọn lòng tin cả đời của Mẹ. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong bài giảng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Vatican có nói: “Trọn con người của Mẹ là lời xin vâng đối với Thiên Chúa...”
Đức cố Giuse Vũ Duy Thống trong một bài giảng có chia sẻ: “Niềm tin hiến thân của Mẹ còn được nhận ra ngay trong tâm tình reo vui cảm tạ. Kinh magnificat là kinh tạ ơn, nhưng cũng là kinh tin kính của Mẹ. Kinh này được hát lên trong ngày thăm viếng bà Êlisabét nhưng cũng được hát lên bằng cả chiều dài cuộc sống của Mẹ”.
Hãy ngắm nhìn Đức Maria. Mẹ sẽ giúp chúng ta đi trọn hành trình cuộc đời với lòng tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa quan phòng.
Chắp tay cầu khẩn bên Toà Mẹ
Xin ơn tin tưởng trọn cuộc đời.
2.2. LÒNG CẬY TRÔNG VỮNG VÀNG
Ngắm nhìn Mẹ, dõi theo hành trình trần thế của Mẹ, chúng ta thấy nẻo đường Mẹ đi không vắng bóng thập giá nhưng cũng đầy ắp lòng cậy trông. Mẹ cậy trông vào Chúa. Mẹ hoàn toàn phó thác nơi Chúa.
Trong những ngày tháng tù đày, đấng Đáng Kính HY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã học nơi Mẹ bài học của niềm hy vọng. Ngài kể:
“Khi không thể cầu nguyện được, tôi thường cầu cứu Đức Mẹ và nói: “Mẹ ơi, Mẹ thấy con kiệt sức rồi, con không đọc được một lời kinh nào nữa. Vậy con chỉ đọc Kinh Kính Mừng thôi. Con đặt niềm trông cậy vào Mẹ và xin Mẹ phân phát lời cầu này cho tất cả những ai đang cần trong Giáo Hội, trong giáo phận của con”. Và ngài hay cầu nguyện: “Kính chào Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu. Là Mẹ và là gương mẫu của Hội Thánh Ngài. Mẹ là niềm vui trong châu lệ. Là chiến thắng trong đấu tranh. Là hy vọng trong thử thách. Mẹ là đường duy nhất dẫn chúng con đến với Chúa Giêsu”. Và ngài cũng dạy: “Con hãy hy vọng luôn luôn, đừng chán nản vì những khó khăn nội bộ, ngay trong việc tông đồ”.
Bước vào cuộc đời là chúng ta bước vào những chuỗi ngày trách nhiệm với thánh giá nặng nề được trao ban. Nếu trong cuộc lữ hành ấy, chúng ta dõi theo nẻo đường của Mẹ, nẻo đường của lòng cậy trông và phó thác, nẻo đường của lòng trung tín và chung thủy, thì chúng ta sẽ vượt qua được những giông tố bão táp và nêu gương một đời sống vẹn toàn.
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong bài giảng tại nhà nguyện Thánh Matta ngày 10.12.2013, nói: “Khi người tín hữu Kitô quên đi hy vọng của mình, hoặc tệ hơn, là đánh mất đi niềm hy vọng, thì cuộc sống của người ấy là vô nghĩa. Lúc đó đời người ấy như húc phải một một bức tường: Tất cả là hư vô. Nhưng Chúa an ủi chúng ta và dẫn đưa chúng ta về phía trước với niềm hy vọng.”
Đường hy vọng cùng Mẹ con dõi bước
Mẹ ở bên con thắm thiết ân cần
2.3. LÒNG YÊU MẾN SẮT SON
Cuộc đời Mẹ còn đẹp vì được dệt bằng cả trời yêu thương. Yêu thương là lẽ sống của Mẹ. Mẹ đã đi nẻo đường của Chúa Giêsu, con Mẹ, nẻo đường của một tình yêu mãi mãi trao ban. Mẹ trao ban cho nhân loại chính Chúa Cứu Thế.
Mỗi khi chúng ta gặp khó khăn trong đời sống, mỗi khi chúng ta gặp khủng hoảng trong đời sống đức tin, mỗi khi chúng ta chán nản, thất vọng… Mẹ nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi!” Và Mẹ vẫn ân cần nói với chúng ta: “Người nói gì các con hãy làm theo”.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Khi chiêm ngắm Đức Mẹ, chúng ta cũng biết vận mệnh đích thực của chúng ta, ơn gọi sâu xa nhất của chúng ta, đó là: được yêu mến, được tình thương biến đổi. Chúng ta hãy nhìn Mẹ và để cho Mẹ nhìn ngắm chúng ta; để học cách trở nên khiêm nhường hơn, can đảm hơn trong việc sống theo Lời Chúa, để đón nhận vòng tay dịu dàng của Chúa Giêsu, Con của Người, vòng tay ban cho chúng ta sự sống, hy vọng và an bình”.
Yêu thương mở rộng trời ân phúc
Gia đình nên thánh, Mẹ mỉm cười
3. VIẾT THƯ CHO MẸ MARIA
Vào dịp tĩnh tâm linh mục đầu tiên trong đời linh mục năm 1999, Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn địa phận Quy Nhơn có kể một câu chuyện sau:
“Hồi ấy, thành phố Paris còn nghèo lắm. Nhiều người chẳng biết chữ nên mới có một nghề mà bây giờ không còn nữa: viết thư mướn.
Trong một con phố nghèo của Paris có một ông già chuyên làm nghề viết thư mướn. Ông viết đủ thứ từ đơn xin việc đến những lá thư tình của các cô cậu yêu thương nhau. Phần lớn dân chúng còn mù chữ nên ông kiếm ăn cũng khá, mỗi ngày đều có người tấp nập ra vào.
Một ngày nọ, đang lúi húi viết thì có một đứa nhỏ độ 6-7 tuổi bước vào. Nhìn đứa bé thì biết nó xuất thân từ một gia đình nghèo khó. Áo quần không rách rưới nhưng là áo quần của trẻ lớn được sửa lại. Đứa bé cũng như bao đứa bé nghèo của châu thành Paris, chỉ có đôi mắt của đứa bé làm cho người ta chú ý. Nó có một cặp mắt xanh, tròn xoe và dễ thương.
Ông lão ngừng viết nhìn đứa bé rồi nói: “Này, cháu muốn gì?”
Đứa bé lễ phép thưa: “Dạ, cháu muốn viết một lá thư”.
Ông lão nói: “10 xu một lá thư con ạ”.
Nghe vậy, đứa bé quay trở ra. Ông lão nhìn theo, thấy tội nghiệp nên nói: “Này cháu, vào đây!”.
Khi đứa bé trở lại, ông hỏi: “Này cháu, cháu không có 10 xu sao? Cháu là con của ai?”
Đứa bé từ tốn trả lời: “Dạ, cháu là con của mẹ cháu”.
Ông lão nói: “Vậy là ta hiểu rồi. Cháu không có 10 xu, mẹ cháu cũng không có, vậy thì viết thư xin chút cháo phải không?”
Ông lão nhìn đứa bé, nỗi thương cảm chợt đến trong trí: “Chà, mình đang ăn ngon, đang ngủ yên thì có biết bao nhiêu người nghèo. Thôi cho nó một tờ giấy, một chút mực cũng không làm mình nghèo thêm đâu”. Nghĩ vậy ông lão nói: “Thôi được, để ông viết hộ cho cháu một lá thư”.
Nói xong, ông lấy ra một tờ giấy và chấm mực vừa viết thật đẹp: “Paris ngày.. tháng... năm. Kính thưa ông...” Ông đọc cho đứa bé nghe và nói: “Giờ cháu muốn viết gì thì nói để ông viết cho”. Bỗng đứa bé ấp úng: “Dạ, không phải là ông ạ!”
Ông lão thoáng một chút khó chịu gạn hỏi: “Không ông thì là bà chứ gì?”
Đứa bé run rẩy nói: “Dạ Bà… mà cũng không phải là bà ạ!”
Lúc này ông lão không còn kiên nhẫn nữa, bắt đầu cáu gắt:
- “Viết thư mà không viết cho ai, không phải ông cũng chẳng phải bà…”
Chú bé lấy hết can đảm thưa: “Thưa ông, cháu muốn viết thư cho Đức Mẹ Maria”.
Không cười nữa, ông già nghiêm nghị nói: “Ta không cho là mày muốn chế nhạo lão già này, giờ hãy ra khỏi cửa và cút đi!”.
Đứa bé ngoan ngoãn len lét quay ra cửa. Nhìn bóng dáng nhỏ bé gầy gò của nó ông lão chợt tội nghiệp vì thằng bé hiền quá. Ông gọi giật giọng: “Này, vào đây!”
Đứa bé giật mình, đứng sững rồi quay trở lại sợ hãi nhìn ông lão. Ông quan sát đứa bé rồi hỏi: “Tên cháu là gì?”
- “Dạ tên cháu là Gioan”
- “Gioan gì nữa?”
- “Dạ Gioan thôi ạ”
Ông lão nói với nó cách dịu dàng: “Này cháu, cháu muốn thưa gì với Đức Mẹ?”
Đứa bé vẫn còn sợ, lí nhí đáp: “Dạ cháu muốn thưa với Đức Mẹ là mẹ cháu đã ngủ từ chiều hôm qua. Cháu không làm sao gọi mẹ cháu dậy được. Cháu muốn xin Người đến đánh thức mẹ cháu dậy”.
Ông lão giựt mình, dường như có một luồng điện chạy dọc sống lưng làm ông toát mồ hôi. Ông đã làm nghề viết thư từ lâu lắm nhưng chưa bao giờ có một khách hàng nào đặc biệt như đứa bé này. Ông hỏi nó: “Sao hồi nãy cháu nói là viết thư xin chút cháo. Ngày hôm nay cháu ăn gì chưa?”
- Thưa chưa. Chiều hôm qua trước khi ngủ mẹ cháu đưa cho cháu miếng bánh mì cuối cùng.
- Còn mẹ cháu ăn gì?
- Đã mấy ngày nay mẹ cháu không ăn gì. Mẹ cháu nói mẹ cháu không đói.
Ông lão linh cảm thấy có điều gì đó thật hệ trọng qua những lời nói đơn sơ của đứa bé. Ông hỏi tiếp: “Thế mẹ cháu làm gì?”
- Mẹ cháu chỉ ngủ thôi ạ.
- Sao cháu không đánh thức mẹ dậy?
- Cháu có lay mà mẹ không trả lời.
- Rồi cháu làm sao?
- Cháu chỉ nằm ôm mẹ cháu thôi ạ.
- Cháu thấy mẹ làm sao?
- Mẹ cháu lạnh lắm mà nhà cháu cũng lạnh lắm. Mặt mẹ cháu trắng bệt.
Ông lão thấy tim mình đau nhói lại. Ông thầm nghĩ: “Chà, tôi đang thu tiền. Tôi đang ăn no, đang uống ngon, mà bên cạnh tôi có người đàn bà chết đói.”
Ông gọi đứa bé lại, đặt nó ngồi trên đầu gối mình và nói hết sức dịu dàng, nước mắt chảy dài: “Cháu ơi, thư của cháu đã được viết rồi, được gởi đi rồi và Đức Mẹ đã nhận lời rồi. Bây giờ hãy dẫn ông đến nhà mẹ cháu”.
Thấy ông lão khóc, đứa bé nói: “Dạ, cháu sẽ dẫn ông đến nhà mẹ cháu, nhưng tại sao ông lại khóc?”
Ông lão ôm lấy đứa bé rồi nói lẩm bẩm một mình: “Hỡi người mẹ đáng thương ơi, bà hãy vui lên! Các bạn tôi có nhạo cười tôi cũng mặc. Bà ở đâu, tôi muốn đi thăm và dẫn đứa bé này về. Thiên thần bé nhỏ đáng thương này, nó sẽ không bao giờ lìa xa tôi nữa, bởi vì lá thư gởi cho Đức Mẹ tuy không được viết kia đã có hai kết quả: là cho cháu bé có một người cha và cho tôi một tấm lòng với niềm tin vào tình thương mến của Đức Mẹ Maria”.
Câu chuyện kết thúc ở đó và độc giả hiểu ông lão viết thư nhân ái ấy đã lo an táng cho người mẹ đáng thương, lo bảo bọc cho đứa bé nhỏ chỉ vỉ một lá thư gởi cho Đức Mẹ.
Hãy gởi thư cho Đức Mẹ. Hãy chạy đến với Đức Mẹ. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Chúng ta hãy luôn dành cho Mẹ Maria một chỗ trọng trong lòng chúng ta. Qua Mẹ, tất cả chúng ta đều nhận ra mình là con Thiên Chúa. Nơi Mẹ, chúng ta học được lòng trông cậy. Với Mẹ, chúng ta học được đức tin và sự cầu nguyện. Anh chị em hãy để Mẹ Maria dẫn đưa tới cùng Chúa Giêsu.
GỢI Ý SUY TƯ – CẦU NGUYỆN
Là linh mục, chúng ta hãy ân cần nép mình dưới áo choàng của Mẹ Maria, Mẹ của lòng thương xót và là Mẹ của các linh mục. Xin Chúa hằng chúc lành cho chúng ta và cho nẻo đường yêu thươn phục vụ, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và các Thánh.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Đấng tuyệt đẹp!
Lời của Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong Mẹ.
Xin làm cho chúng con đừng đánh mất
ý nghĩa hành trình trần thế của chúng con:
xin cho ánh sáng dịu dàng của đức tin
chiếu sáng những ngày đời của chúng con,
cho sức mạnh an ủi của hy vọng
hướng dẫn bước chân của chúng con,
cho sức nóng lan tỏa của tình yêu
linh hoạt con tim của chúng con,
cho mắt của tất cả chúng con
hướng nhìn về nơi Thiên Chúa,
nơi có niềm vui đích thực. Amen. (Đức Phanxicô)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét