label

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2019

Giáo Phận Long Xuyên HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH VIỆC ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN

Giáo Phận Long Xuyên
HƯỚNG DẪN
THỰC HÀNH VIỆC ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN

DẪN NHẬP
Hơn bao giờ hết, vào thời điểm hiện tại, các việc đạo đức bình dân chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống đạo của các Kitô hữu. Với một số đông Kitô hữu, các việc đạo đức bình dân còn quan trọng hơn các cử hành Phụng Vụ chính thức của Giáo Hội, và họ đã đi đến thái quá trong việc thực hành các việc đạo đức bình dân mà họ yêu thích. Tình trạng này xem ra rất phổ biến tại Việt Nam, cách riêng tại giáo phận Long Xuyên.

 Để tránh những sai lạc của các Kitô hữu trong việc thực hành các việc đạo đức bình dân trong Giáo phận và tại các Giáo xứ, rất mong các linh mục, những người phụ trách các cộng đoàn dân Chúa, quan tâm khuyến khích và hướng dẫn để, một đàng hun đúc lòng đạo đức nơi những người giáo dân, một đàng giúp cho họ thực hành những việc đạo đức đúng như Chúa và Giáo hội muốn, hầu mang lại những lợi ích thiêng liêng cho mọi người.

I. NGUYÊN TẮC CHUNG
Qua dòng thời gian, các Giáo Hội Tây Phương đã nổi bật nhờ khả năng phát triển và đâm rễ vào dân Chúa, cùng với và bên cạnh các cử hành Phụng Vụ, những hình thức phong phú và đa dạng, để biểu lộ một cách đơn sơ và nhiệt thành niềm tin vào Thiên Chúa, tình yêu đối với Chúa Kitô Cứu Thế, sự khẩn cầu Chúa Thánh Thần, lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria, việc tôn kính các thánh, bổn phận hoán cải và tình bác ái huynh đệ. Tuy nhiên, trong lãnh vực rất phức tạp này, thường gọi là “lòng sùng mộ bình dân” hay “lòng đạo đức bình dân”, các thuật ngữ được sử dụng không phải chỉ có một nghĩa duy nhất, vì thế cần phải nêu lên một vài xác định. Dù không kỳ vọng giải quyết dứt khoát hết mọi vấn đề, dường như cần thiết phải đưa ra định nghĩa thông thường của những thuật ngữ được sử dụng trong văn kiện này.

1. Các việc đạo đức
 “Các việc đạo đức” chỉ những biểu hiện chung hay riêng của lòng đạo đức Kitô giáo, những biểu hiện dù không nằm trong Phụng Vụ nhưng vẫn hài hòa với Phụng Vụ, nghĩa là phù hợp với tinh thần, quy tắc và nhịp điệu của Phụng Vụ; hơn nữa, những biểu hiện ấy, một cách nào đó, lấy cảm hứng từ Phụng Vụ, và phải dẫn đưa dân Chúa đến Phụng Vụ. Các việc đạo đức này phải được cử hành “theo những phong tục hay những sách  đã được phê chuẩn hợp pháp.”

2. Các việc sùng mộ
Thuật ngữ “việc sùng mộ” được dùng để chỉ những việc thực hành bên ngoài (chẳng hạn như: các kinh nguyện hay bài ca; việc tôn trọng một số thời gian hay đi viếng những nơi đặc biệt, những phù hiệu, những ảnh đeo, những tập quán và những quy tắc).

3. Lòng đạo đức bình dân
Cụm từ “lòng đạo đức bình dân” chỉ những biểu hiện phụng tự mang tính cách cá nhân hay cộng đồng, mà trong khuôn khổ đức tin Kitô giáo, diễn tả trước hết, không phải là theo các thể thức Phụng Vụ, nhưng vay mượn những sắc thái đặc thù thuộc tinh hoa của một dân tộc hay một sắc tộc, nghĩa là thuộc văn hóa của họ.

4. Khuynh hướng tín ngưỡng bình dân
 “Khuynh hướng tín ngưỡng bình dân” chỉ định một cảm nghiệm phổ quát: trong lòng mỗi người, cũng như trong nền văn hóa của mỗi dân tộc, đặc biệt trong khuôn khổ những biểu hiện có tính tập thể của họ, luôn luôn có một chiều kích tín ngưỡng nào đó. Trên thực tế, mỗi dân tộc đều cố gắng diễn tả cách nhìn toàn diện của mình đối với siêu việt, cũng như quan niệm của mình về tự nhiên, về xã hội và về lịch sử, qua trung gian những lễ nghi phụng tự, và như thế, họ thực hiện một nỗ lực tổng hợp đặc biệt mang chiều kích vừa nhân bản vừa thiêng liêng rất cao quí.

Khuynh hướng tín ngưỡng bình dân không phải lúc nào cũng chỉ liên quan đến mạc khải Kitô mà thôi. Thật vậy, ở nhiều nơi, có những xã hội thấm nhuần các yếu tố Kitô theo những cung cách rất đa dạng, nảy sinh một thứ “đạo công giáo bình dân”, ở đó đồng hiện hữu với ít nhiều hài hòa, những yếu tố khác nhau xuất phát từ cảm thức tôn giáo về đời sống, về văn hóa riêng của dân tộc và về mạc khải Kitô.

5. Vị trí tột đỉnh của Phụng Vụ
Lịch sử cho biết rằng, vào một vài thời kỳ, đức tin của các Kitô hữu đã được nâng đỡ bởi những hình thức và thực hành đạo đức, mà đa số các trường hợp được tín hữu xem là những biến cố đặc biệt và không thể tách rời khỏi những cử hành Phụng Vụ. Thật vậy, mọi cử hành Phụng Vụ, với tính cách là hoạt động của Chúa Kitô linh mục và của Thân Mình Người là Giáo Hội, đều là hành động thánh thiêng tuyệt hảo. Không có một cử hành nào của Giáo Hội đạt được hiệu quả ngang hàng và ngang cấp với Phụng Vụ. Chính vì thế, các bí tích là không thể thiếu được để sống hiệp nhất với Chúa Kitô, còn những hình thức khác nhau của lòng đạo đức bình dân lại mang một tính chất tùy nghi, dẫu cho một số cộng đoàn hay tín hữu, với tư cách cá nhân, luôn có thể xem chúng như có tính bó buộc.

Tuy nhiên, vị trí ưu tiên tuyệt đối của Phụng Vụ đối với những hình thức cầu nguyện khác của tín hữu là khả thi và chính đáng. Nguyên tắc này khẳng định dứt khoát tính ưu tiên tuyệt đối của kinh nguyện Phụng Vụ và năm Phụng Vụ so với mọi thực hành sùng mộ khác, nhưng không bao giờ đồng nghĩa với việc loại trừ, chống đối và gạt ra ngoài lề những thực hành đạo đức chính đáng.

6. Nâng cao giá trị và đổi mới
Tính chất tùy nghi của những việc đạo đức không bao giờ có nghĩa là thiếu hiểu biết hay khinh dể những việc ấy. Trái lại, thái độ đúng đắn cần phải có là nâng cao giá trị một cách thích đáng và khôn ngoan, những mặt phong phú không thể coi thường của lòng đạo đức bình dân, với những tiềm năng và phẩm chất của đời sống Kitô hữu mà lòng đạo đức ấy có thể khơi dậy.

Vì Tin Mừng là thước đo và tiêu chuẩn cho mọi hình thức, cũ cũng như mới, của lòng đạo đức Kitô giáo, nên việc nâng cao giá trị các việc đạo đức và những việc sùng mộ cần phải đi đôi với công việc thanh lọc, để chúng được hài hòa với mầu nhiệm Kitô. Lưu ý này đặc biệt có giá trị đối với những yếu tố của lòng đạo đức bình dân được thừa nhận bởi Phụng Vụ, vì Phụng Vụ tuyệt đối không thể đón nhận những nghi thức ma thuật, dị đoan, thông linh, trù ếm hay có hàm ý tính dục.

Như thế, lòng đạo đức bình dân cần phải hội đủ những yếu tố sau:
a. Cảm hứng từ Kinh Thánh.
b. Cảm hứng từ Phụng Vụ.
c. Cảm hứng từ đại kết, nghĩa là chú ý đến những điểm nhạy cảm và những truyền thống Kitô khác nhau, đồng thời tránh làm những thử nghiệm không phù hợp.
d. Cảm hứng mang tính nhân loại học, được diễn đạt, hoặc bằng cách đón nhận những biểu tượng và những cách biểu lộ riêng của từng dân tộc.

7. Phân biệt và hài hòa với Phụng Vụ
Sự khác biệt khách quan giữa một đàng là những việc đạo đức và thực hành sùng mộ, và một đàng là Phụng Vụ, cần phải thể hiện rõ ràng trong các cách diễn đạt của phụng tự Kitô giáo. Điều này có nghĩa là: một đàng, những hình thức đặc biệt của các việc đạo đức không thể lẫn lộn với những hành động Phụng Vụ, và đàng khác, những việc đạo đức và sùng mộ có một chỗ đứng riêng, bên ngoài Thánh Lễ và những bí tích khác.

Hơn nữa, cần phải tránh hiện tượng chồng chéo lên nhau, để ngôn ngữ, nhịp độ, hình thức, các điểm nhấn thần học về lòng đạo đức bình dân khác biệt rõ ràng với những yếu tố tương ứng trong hành động Phụng Vụ. Cũng thế, nên chế ngự bất cứ sự cạnh tranh hay đối lập ngẫu nhiên nào có thể xảy ra đối với các cử hành Phụng Vụ, bằng cách xác định tính chất ưu tiên của ngày Chúa nhật, các ngày lễ trọng, các mùa và ngày theo Phụng Vụ.

Cuối cùng, cần tránh gọi những việc đạo đức là những “cử hành Phụng Vụ”, vì chúng phải duy trì sắc thái, tính đơn sơ và ngôn ngữ đặc thù riêng của mình.

8. Ngôn ngữ của lòng đạo đức bình dân
Ngôn ngữ bằng lời và bằng cử chỉ của lòng đạo đức bình dân, dù phải duy trì lối diễn tả đơn sơ và tự phát, cũng cần phải được chăm sóc đặc biệt, để trong mọi trường hợp và mọi lúc, chúng biểu lộ chân lý đức tin và sự cao cả của các mầu nhiệm Kitô giáo.

9. Cử chỉ
Đặc trưng của lòng đạo đức bình dân là lối diễn tả đa dạng và phong phú của thân thể, những cử điệu và biểu tượng. Ta có thể kể: tập quán hôn hay chạm tay vào ảnh tượng, nơi thánh, thánh tích, hay vật thánh; việc hành hương hay tổ chức rước kiệu, đi một số chặng đường “đặc biệt” bằng chân trần hay bằng đầu gối; việc dâng của lễ, dâng nến hay bảng tạ ơn; mặc y phục đặc biệt; quỳ gối hay sấp mình, đeo ảnh hay mang phù hiệu... Những lối biểu hiện ấy, được truyền lại qua bao thế kỷ từ đời nọ sang đời kia, đều là những phương tiện trực tiếp và đơn giản nhằm biểu lộ ra ngoài những tình cảm trong tâm hồn tín hữu, đồng thời cũng biểu lộ lòng mong muốn được sống một đời sống Kitô chân thực. Thiếu chiều kích nội tâm này, những cử chỉ biểu trưng có nguy cơ trở nên những thói quen trống rỗng, và tệ hại hơn nữa, có thể thoái hóa thành dị đoan.

10. Những bản kinh và lời nguyện
Mặc dù những bản kinh và lời nguyện đạo đức được viết sẵn trong một ngôn ngữ mà ta có thể gọi là kém nghiêm nhặt so với kinh nguyện Phụng Vụ, tuy nhiên chúng cũng phải lấy cảm hứng từ các bản văn Kinh Thánh, từ Phụng Vụ, từ các Giáo Phụ và Huấn Quyền, đồng thời phải phù hợp với đức tin của Giáo Hội. Việc sử dụng những bản kinh hay những lời nguyện đạo đức có tính chất ổn định và công khai cần phải được Bản Quyền phê chuẩn.

11. Bài ca và âm nhạc
Bài ca là sự diễn tả tự nhiên tâm hồn của một dân tộc, giữ một vị trí đặc biệt trong khuôn khổ lòng đạo đức bình dân. Việc chăm lo gìn giữ các bài ca truyền thống được kế thừa từ các thế hệ trước phải được liên kết với ý nghĩa của Kinh Thánh và Giáo Hội, và do đó, cần thiết phải duyệt lại thường xuyên những bài ca hiện thời hoặc soạn ra những bài ca mới.

Một số dân tộc có thói quen kèm theo bài ca việc vỗ tay, lắc lư thân mình theo nhịp điệu hay múa may. Những cách thức đặc thù thể hiện tình cảm nội tâm này là một phần của truyền thống dân tộc, đặc biệt vào các ngày lễ các thánh bổn mạng; những cách thức đó có thể chấp nhận được với điều kiện làm thành một kinh nguyện chung thực sự, chứ không chỉ là một màn trình diễn.

12. Các ảnh tượng
Một biểu hiện khác rất quan trọng của lòng đạo đức bình dân chính là việc sử dụng những ảnh tượng thánh. Những ảnh tượng này được thực hiện tùy theo các quy luật của nền văn hóa địa phương và theo tính đa dạng của các nghệ sĩ, nhằm giúp tín hữu tiếp cận được các mầu nhiệm Kitô. Cần phải khẳng định rằng: việc tôn kính các ảnh tượng thánh, tự bản chất, là một cách sùng mộ của đạo Công Giáo.

Bởi lẽ các ảnh tượng - có chỗ đứng trong các nơi thánh - không thể phó mặc cho sáng kiến riêng tư, nên các vị có trách nhiệm trông coi các nhà thờ và nhà nguyện phải có sự theo dõi cần thiết, để bảo đảm tính trang trọng, tính thẩm mỹ và cấp bậc của các ảnh tượng đưa ra cho tín hữu tôn kính công khai, đặc biệt nên cẩn thận đừng để có những ảnh tượng từng được cảm hứng bởi sự sùng mộ riêng tư của cá nhân nào  đó lại được đem ra áp đặt sự tôn kính của mọi người.

Các Giám Mục, cũng như những vị quản đốc các đền thánh, cần phải bảo đảm sao cho các ảnh tượng thánh, vốn được làm ra dưới nhiều hình thức khác nhau để tín hữu trưng bày trong nhà, hoặc đeo nơi cổ, hoặc giữ riêng, không thoái hóa thành một thứ gì tầm thường hay lệch lạc.

13. Các địa điểm
Ngoài nhà thờ ra, lòng đạo đức bình dân còn có địa điểm đặc biệt là đền thánh - không phải lúc nào cũng là một nhà thờ, mà nét đặc trưng là những hình thức và các việc thực hành đặc biệt nói lên lòng sùng mộ diễn ra tại đó, và việc đáng chú ý hơn cả là những cuộc hành hương. Bên cạnh những nơi thờ phượng đó, vốn rõ ràng là dành riêng cho việc cầu nguyện cộng đồng hay riêng lẻ, còn có những nơi khác, không kém quan trọng, đó là nhà ở, những nơi ta sống và làm việc. Trong một số hoàn cảnh, những đường phố và quảng trường cũng có thể trở thành những nơi thể hiện đức tin.

14. Các thời điểm
Lòng đạo đức bình dân còn gắn liền với những ngày đặc biệt, trong đó những biến cố vui buồn của cá nhân, gia đình hay cộng đoàn được họp mừng hay tưởng nhớ. Nhất là các “lễ hội”, với những ngày chuẩn bị, để làm nổi bật những nỗ lực diễn tả lòng đạo vốn từng góp phần làm nên truyền thống đặc biệt của một cộng đoàn.

15. Trách nhiệm và quyền hạn
Những biểu hiện của lòng đạo đức bình dân được đặt trong tầm trách nhiệm của Bản Quyền sở tại: ngài chính là người quy chế hóa, và khuyến khích những biểu hiện ấy trong khuôn khổ chức năng của ngài, đó là thăng tiến đời sống đạo đức nơi các tín hữu, thanh luyện các biểu hiện ấy khi cần thiết, và Tin Mừng hóa chúng. Ngài cũng chăm sóc để chúng không thay thế và không lẫn lộn với những cử hành  Phụng Vụ; ngài cũng còn phải thẩm duyệt những bản kinh và các lời nguyện sử dụng trong các việc đạo đức công khai và trong khuôn khổ thực hành lòng sùng mộ. Những qui định của Bản Quyền dành cho lãnh thổ dưới quyền tài phán của ngài, liên quan đến Giáo Hội địa phương mà ngài được giao phó.

Cuối cùng, các tín hữu, với danh nghĩa cá nhân, dù là giáo sĩ hay giáo dân, cũng như các nhóm đặc biệt, phải tránh công khai đề nghị và phổ biến các bản kinh, các lời nguyện và các sáng kiến nào chưa được sự đồng ý của Bản Quyền.

II. MỘT SỐ HƯỚNG DẪN CỤ THỂ VỀ THỰC HÀNH LÒNG ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN TẠI GIÁO PHẬN LONG XUYÊN

  1. Định Hướng: Nguyên tắc của Thánh Augustinô:
  • Hiệp nhất trong những gì chính yếu,
  • Tự do trong những gì tùy phụ,
  • Và bác ái trong hết mọi sự”.
  1. 4 tiêu chuẩn để phân định và chọn lựa: Duy nhất – Thánh Thiện – Công Giáo – Tông truyền.
  2. Vai trò phân định và trách nhiệm của các mục tử (giáo phận – giáo hạt – giáo xứ giáo họ) trong việc tổ chức các việc đạo đức bình dân.

1. Những quy định về các nghi thức cử hành trong phụng vụ, cụ thể là trong Thánh Lễ
a. Nguyên tắc chung: Không có việc đạo đức bình dân nào được cử hành trong phụng vụ và Thánh Lễ. Như vậy, chỉ được phép cử hành các nghi thức đã được quy định trong Sách Lễ Rôma trong Thánh Lễ: Cử hành Bí tích khai tâm Kitô giáo, Bí tích Truyền chức, trao Mình Thánh Chúa cho người lâm chung, nghi lễ cho các đôi Hôn phối, Chúc phong Viện Phụ, Viện Mẫu, Thánh hiến Trinh nữ, tuyên khấn sống bậc tu trì, cung hiến nơi thánh.

b. Các nghi thức dưới đây không được cử hành trong Thánh Lễ:
- Nghi thức tuyên hứa, tuyên thệ, trao khăn… cho Thiếu Nhi Thánh Thể
- Trao bằng Giáo lý…, cử hành nghi thức trọng thể Bao đồng (Chỉ làm trước hoặc sau Thánh Lễ). 
- Hội đồng mục vụ giáo xứ tuyên hứa.
- Đọc đoạn rửa chân sau bài giảng của Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh.
- Không được cử hành nghi thức chào cờ (Thiếu Nhi Thánh Thể) trong Nhà thờ.

c. Không đọc những lời dẫn vào các bài đọc trong Thánh Lễ.

d. Trước, trong, và cuối Thánh Lễ, trên gian cung thánh, cá nhân hay tập thể, sẽ không dâng hương, dâng hoa, dâng nến/đèn cầy theo kiểu trình diễn múa vũ điệu.

e. Trong Thánh Lễ cấp giáo phận, giáo hạt, các đoàn hội, sẽ không tặng hoa cho con người (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân) trước, hay trong Thánh Lễ. Còn trong cuộc quy tụ của cộng đoàn giáo xứ/giáo họ, sẽ tùy Cha Sở (chứ không phải Cha Phó) hay Cha Quản Sở của cộng đoàn đó quyết định.

f. Trong Thánh Lễ cấp giáo phận, giáo hạt, và các đoàn hội, không cử hành nghi thức dâng Lễ Vật – Còn trong các Thánh Lễ cấp giáo xứ/giáo họ, sẽ tùy sự chọn lựa của Cha Sở hay Cha Quản Sở, nhưng (*) không múa vũ điệu khi dâng Lễ Vật, và (*) sau khi chủ tế đã nhận lễ vật, thì những người dâng lễ vật đi về chỗ (những người dâng lễ vật không nâng Lễ vật khi linh mục dâng bánh, dâng rượu.

g. Trong Thánh Lễ trong toàn giáo phận, khích lệ dùng than hồng và trầm hương – Trong Thánh Lễ cấp giáo phận, giáo hạt và các đoàn hội, nếu không có than và trầm hương, cũng sẽ không xử dụng dâng nhang. – Tại giáo xứ, tùy sự chọn lựa của Cha Sở hay Cha Quản Sở.

h. Trong Rước Lễ Bao Đồng (Rước Lễ Trọng Thể) có những nghi lễ riêng, như lặp lại lời hứa khi lãnh bí tích Rửa Tội, đặt tay trên Sách Thánh tuyên hứa, cám ơn và xin lỗi Cha Mẹ…, khích lệ tổ chức các nghi thức này trước Thánh Lễ. Tuy nhiên vì đây là một sinh hoạt có truyền thống lâu đời của các cộng đoàn tín hữu miền Nam, đồng thời các nghi thức này vẫn còn đem lại nhiều hiệu quả huấn luyện đời sống Kitô hữu, nhất là cho giới trẻ chuẩn bị bước vào đời, nên các Cha Sở và các Cha Quản Sở, tùy hoàn cảnh của cộng đoàn, để quyết định có thể tổ chức theo đúng truyền thống.

2. Những quy định về Đạo Đức Bình Dân trong mùa Chay và đặc biệt là trong nghi thức Phụng Vụ của Tam Nhật Thánh

a. Luật Hội Thánh về ngày thứ Sáu: Cần khơi lại ý thức về luật buộc của Hội Thánh “Thứ Sáu, kiêng thịt ngày thứ Sáu cùng những ngày khác Hội thánh dạy”. Vì là luật, nên ai vi phạm sẽ là tội. Tuy nhiên, nếu ngày thứ Sáu trùng với một trong những ngày lễ trọng, thì không buộc phải kiêng thịt (x. GL. 1983, 1251). Hơn nữa, Hội Đồng Giám mục Việt Nam, khoá họp tháng 4 năm 1991 đã ấn định: các ngày thứ Sáu, có thể thay việc kiêng thịt bằng một việc đạo đức hay một việc từ thiện bác ái, như: đọc hay nghe một đoạn Lời Chúa, làm một việc hãm mình đền tội, bố thí cho người nghèo, làm việc công ích, v.v… Như thế, để giữ luật hãm mình ngày thứ sáu, tín hữu Việt nam có thể kiêng thịt như luật chung Hội Thánh quy định, hay làm một việc đạo đức, từ thiện bác ái, như Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã cho phép (x. ttps://conggiaovietnam.vn/luat-chay-va-kieng-thit-trong-hoi-thanh-cong-giao.html).

(Xem thêm phần THAM KHẢO, số 1&2)
Cũng cần phải huấn luyện lương tâm về tuân giữ tinh thần khổ chế hy sinh vì tình yêu hơn là vì sợ tội, đặc biệt là thể hiện tình yêu cụ thể bằng thực hiện các việc bác ái.

b. Mùa Chay: Khích lệ các cộng đoàn tổ chức các cuộc suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu, như đi chặng đàng Thánh Giá, Ngắm Đứng. Nhưng không được tổ chức “Ngắm Nhân Tài” trong Nhà Thờ.

c. Luật Ăn Chay và Kiêng Thịt ngày thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Thánh: Khích lệ các tín hữu (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân) giữ luật ăn chay và kiêng thịt, kết hợp với việc thực hiện bác ái, cụ thể là thực hiện Thương người có 14 mối, như dành phần chay tịnh trong ăn uống và tiêu xài để giúp đỡ những người nghèo, đau yếu… trong cộng đoàn.

d. Tuần Cửu Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa: Rất khích lệ các tín hữu, cá nhân hay tập thể, thực hiện Tuần Cửu Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa, từ thứ Sáu Thánh đến Chúa Nhật II Phục Sinh, tại gia, tại liên gia, hay tại các Nhà thờ Nhà nguyện.

e. Tam Nhật Thánh: Khích lệ các cộng đoàn theo truyền thống đạo đức miền Nam, tổ chức “Lễ Đèn” vào sáng Thứ Năm Thánh, thứ Sáu Thánh, và thứ Bảy Thánh.

f. Thứ Năm Thánh:
- Không đọc đoạn rửa chân sau bài giảng của Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh.
- Không đốt chiên trong Thánh Lễ.
- Trong nghi thức rửa chân, Linh mục có thể tùy nghi hôn chân người được rửa chân.

g. Thứ Sáu Thánh: Trong số các biểu hiện của lòng đạo đức bình dân, ngoài Đàng Thánh Giá, cuộc rước kiệu tưởng nhớ “Cái Chết Của Chúa” theo truyền thống đạo đức của các tín hữu miền Bắc có một vị trí lớn. Đồng thời, ở nhiều nơi, trong Tuần Thánh, đặc biệt ngày Thứ Sáu Thánh, có các buổi diễn lại cuộc Thương Khó Chúa. Đây thường là những buổi “trình diễn thánh thiêng” thật sự, có thể coi cách hữu lý như những việc đạo đức. 

h. Thứ Bảy Thánh: Rất khích lệ các tín hữu dành thời gian suy niệm cuộc thương khó của Chúa tại các Nhà thờ, và có thể tiếp tục bày tỏ sự Suy tôn Thánh Giá trong nghi thức phụng vụ chiều thứ Sáu Thánh bằng hôn kính Thánh Giá Chúa tại Nhà thờ hay đi Chặng Đàng Thánh Giá vào ngày thứ Bảy Thánh.

3. Những quy định cụ thể của giáo phận về Đạo Đức Bình Dân
a. Trong nhà thờ: Không diễn văn nghệ, không múa lân.
b. Trên gian cung thánh: Không hội ca, không đấu hoa, không diễn nguyện.
c. Dâng hoa tôn kính Đức Mẹ:

- Buổi dâng hoa phải có bố cục rõ ràng. Đề nghị Cấu trúc một buổi dâng hoa (Xem thêm phần THAM KHẢO, số 3):
+ Cùng Mẹ hướng về Thiên Chúa (tôn thờ, cảm tạ, sám hối phó thác...).
+ Ca tụng Đức Mẹ - Dâng tiến hoa tôn kính Mẹ - Noi gương Nhân Đức của Mẹ  - Tạ ơn và cầu khẩn với Mẹ.
+ Cùng Mẹ hướng về Chúa với tâm tình tạ ơn và phó thác.
- Khuyến khích tính cộng đoàn: kết hợp nghi thức Dâng Hoa với rước kiệu, lần chuỗi Mân Côi.
- Khuyến khích kết hợp lòng tôn kính Đức Mẹ bằng những bông hoa bác ái: giúp đỡ người nghèo…
- Khuyến khích kết thúc dâng hoa bằng phụng vụ (Thánh Lễ) hay A bí tích (Chầu Thánh Thể).
- Khuyến khích ưu tiên chọn lựa các thiếu nhi dâng hoa và hướng dẫn tinh thần đạo đức, cổ vũ lòng kính mến Đức Mẹ cho cộng đoàn, đặc biệt là cho các con hoa.
- Khuyến khích không dâng hoa trên gian cung thánh và khuyến khích dâng hoa trước tượng đài Đức Mẹ ngoài nhà thờ.
- Nếu dâng hoa trong nhà thờ, không được để tượng Đức Mẹ trên bàn thờ của nhà thờ.
- Không sử dụng nhạc thu sẵn. Rất cổ vũ cả cộng đoàn hát những bài thánh ca cộng đồng, hoặc chính những người dâng hoa, hay ca đoàn hát thánh ca.
- Khi dâng hoa, người dâng hoa phải quay mặt hướng lên Đức Mẹ, trừ khi di chuyển thì có thể quay lưng lên.
- Vì đây là việc linh thánh, nên cũng cần quan tâm đến y phục của các con hoa, tránh xa hoa, đua đòi, tốn kém và hở hang.

III. THAM KHẢO

1. Kiêng Thịt Ngày Thứ Sáu Và Các Lễ Trọng Địa Phương
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô, giáo sư phụng vụ tại đại học Regina Apostolorum (Nữ vương các thánh Tông đồ), Roma.

Hỏi: Tại Anh và xứ Wales, Hội Đồng Giám Mục đã quyết định tái lập việc kiêng thịt ngày thứ Sáu theo điều 1251 của Bộ Giáo luật. Theo điều luật này, việc kiêng thịt được áp dụng cho mọi ngày thứ Sáu, trừ ra các thứ Sáu có lễ trọng. Như thế, khi lễ bổn mạng của một giáo xứ rơi vào ngày thứ Sáu, và được tổ chức trọng thể tại riêng giáo xứ ấy, liệu mọi tín hữu giáo xứ ấy được ăn thịt vào ngày thứ Sáu ấy không, dù họ đi dự lễ ở nhà thờ khác? Liệu một người không thuộc giáo xứ ấy, nghĩ rằng đó là một lễ trọng tại địa phương, đi đến một tiệm ăn trong khu vực giáo xứ ấy để ăn thịt được không? - S.P., Tổng Giáo Phận Birmingham, Anh.

Đáp: Sau đây là các điều luật liên quan về "Các Ngày Thống Hối": (Bản dịch Việt ngữ của Bộ Giáo Luật do các Linh Mục sau đây thực hiện: Nguyễn Văn Phương, Phan Tấn Thành, Vũ Văn Thiện, Mai Ðức Vinh).

Ðiều 1249: Luật Chúa buộc mọi tín hữu làm việc thống hối theo cách thức riêng của mỗi người. Nhưng để các tín hữu liên kết với nhau trong một vài nghĩa vụ thống hối chung, luật quy định những ngày thống hối, để trong những ngày ấy, các tín hữu chú trọng đặc biệt đến sự cầu nguyện, thi hành việc đạo đức và việc bác ái, từ bỏ bản thân, bằng cách trung thành chu toàn các bổn phận riêng và nhất là bằng cách giữ chay và kiêng thịt, dựa theo các điều luật sau đây.

Ðiều 1250: Những ngày và mùa thống hối chung cho toàn thể Giáo Hội là các ngày thứ sáu trong năm và mùa chay.

Ðiều 1251: Vào các ngày thứ sáu, nếu không trùng với ngày lễ trọng, thì phải giữ việc kiêng thịt hay kiêng một thức ăn khác theo Hội Ðồng Giám Mục đã quy định. Vào ngày thứ tư Lễ Tro và ngày thứ sáu Tuần Thánh kính nhớ sự Thương Khó và Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, phải giữ việc kiêng thịt và ăn chay.

Ðiều 1252: Luật kiêng thịt buộc những người đã 14 tuổi trọn. Luật ăn chay buộc hết mọi người đã đến tuổi trưởng thành cho tới lúc bắt đầu 60 tuổi. Tuy nhiên, các Chủ Chăn và các phụ huynh phải lo dạy cho các em chưa đến tuổi buộc ăn chay và kiêng thịt để chúng hiểu biết ý nghĩa đích thực của việc thống hối.

Ðiều 1253: Hội Ðồng Giám Mục có thể xác định rõ rệt hơn việc giữ chay và kiêng thịt, cũng như thay thế chúng cách toàn phần, hay từng phần bằng những hình thức thống hối khác, nhất là bằng những việc từ thiện và việc đạo đức.

Những gì các Giám mục Anh và xứ Wales đã thực hiện là khôi phục việc tuân giữ đầy đủ các điều luật 1250-1251. Trước đây, việc kiêng thịt chỉ áp dụng cho các thứ Sáu Mùa Chay.

Tôi có thể nói rằng do tính chất lãnh thổ của lễ trọng được mừng, luật miễn ăn thịt chỉ áp dụng cho những người ở trong lãnh thổ giáo xứ. Còn giáo dân ngoài giáo xứ ấy phải tuân giữ luật phổ quát.

Ít là về lý thuyết, một người Công giáo, nhận thức rằng một giáo xứ đang mừng lễ trọng vào ngày thứ Sáu, có thể đến đó để ăn thịt. Nên nhớ điều này có nghĩa rằng người đó là một người Công giáo tốt, do đó người ta hy vọng rằng người ấy cũng sẽ chia sẻ niềm vui của giáo xứ bằng cách tham dự Thánh Lễ trọng, trước khi đi đến nhà hàng gần nhất.

Trong mùa thường niên, nhiều giáo xứ chuyển lễ trọng bổn mạng giáo xứ vào chủ nhật gần nhất. Trong trường hợp này, việc miễn kiêng thịt ngày thứ Sáu sẽ không còn áp dụng.

Việc miễn như thế cũng áp dụng cho các lễ trọng của giáo phận. Hầu hết các giáo phận có một lễ trọng bổn mạng hoặc thánh đại diện của mình. Tuy nhiên, việc áp dụng khả năng này không phải là thống nhất. Ví dụ, cả Subiaco và Montecassino đều chọn thánh Biển Đức là thánh bổn mạng chính. Tuy nhiên, trong khi toàn bộ thị trấn Subiaco mừng trọng thể lễ này, tại Montecassino chỉ đan viện chính mừng lễ trọng này thôi. Trong cả hai trường hợp, phần còn lại của giáo phận cử hành ngày lễ.

Mặc dù mỗi ngày thứ Sáu là một ngày thống hối, các ngày thứ Sáu mùa Chay là đặc biệt quan trọng. Vì vậy, nhiều nơi có thói quen kiêng thịt vào ngày lễ trọng trùng với một ngày thứ sáu trong mùa Chay này.
Nguyễn Trọng Đa
nguồn: VietCatholic/ Zenit


2. Luật “Ăn Chay” Và “Kiêng Thịt” Trong Hội Thánh Công Giáo

a. Người Kitô hữu phải kiêng thịt vào những ngày nào?
Theo nguyên tắc chung, người Kitô hữu phải kiêng thịt, hay kiêng một thức ăn nào khác theo quy định của Hội Đồng Giám Mục, vào các ngày thứ sáu trong năm (Điều 1251)
Tuy nhiên, luật này không còn buộc, khi ngày thứ sáu cũng trùng với ngày lễ trọng [1].
Ngoài ra, Giáo Hội còn buộc kiêng thịt (và ăn chay) trong ngày thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh.

b. Trong ngày kiêng thịt, phải kiêng những gì?
Chúng ta không được ăn thịt, nhưng được ăn trứng, được dùng các thức ăn làm với sữa hay các loại nước chấm làm bằng mỡ động vật.
Thịt bị cấm là thịt các loài hữu nhũ và thảo cầm.
Không được xem là thịt bị cấm sử dụng: như các loại cá và các thức ăn biển, những loài có máu lạnh (ếch, trai, sò, rùa), những loài vừa sống trên bờ vừa ở dưới nước (lưỡng cư) và những loài bò sát…

c. Ai phải giữ luật kiêng thịt?
Luật kiêng thịt buộc các tín hữu từ 14 tuổi trọn [2] cho đến mãn đời (Điều 1252).
Tuy nhiên, những ai vì lý do sức khoẻ (bệnh tật), hay vì khả năng lao động (thí dụ làm trong hầm mỏ) cần phải ăn thịt, hoặc những ai không được chủ cho ăn một thức ăn nào khác (đầy tớ, con cái, vợ) thì không buộc giữ luật này.

d. Có thể thay thế việc kiêng thịt bằng một hình thức khác không?
Hội Đồng Giám mục có thể ấn định rõ ràng hơn luật kiêng thịt [3] và ăn chay, cũng như có thể thay thế toàn phần hay một phần việc kiêng thịt và ăn chay bằng những hình thức sám hối khác, nhất là bằng những việc bác ái và việc đạo đức (Điều 1253).

Hội Đồng Giám mục Việt Nam, khoá họp tháng 4-1991 đã ấn định: các ngày thứ Sáu, có thể thay việc kiêng thịt bằng một việc đạo đức hay một việc từ thiện bác ái, như: đọc hay nghe một đoạn Lời Chúa, làm một việc hãm mình đền tội, bố thí cho người nghèo, làm việc công ích, v.v…

Như thế, để giữ luật hãm mình ngày thứ sáu, tín hữu Việt nam có thể kiêng thịt như luật chung Hội Thánh quy định, hay làm một việc đạo đức, từ thiện bác ái, như Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã cho phép [4].

e. Ăn chay là gì?
Chúng ta cần phân biệt 4 cách ăn chay:
– Chay tự nhiên (ieiunium naturale): là kiêng hẳn mọi của ăn, của uống.
– Chay luân lý (ieiunium morale): là hãm bớt của ăn uống, vui thú…
– Chay Thánh Thể (ieiunium eucharisticum): giữ lòng trống không để rước lễ [5].
– Chay Giáo Hội (ieiunium ecclesiasticum): đây là điều mà chúng ta muốn đề cập đến.
Việc giữ chay Giáo Hội hệ tại ở chỗ ăn một bữa [6], còn hai bữa còn lại được phép ăn một chút, miễn là lưu ý đến lượng và phẩm của thức ăn mà tập tục địa phương mỗi nơi cho phép.
Giữa hai bữa ăn, cấm dùng thức ăn đặc, nhưng thức ăn lỏng (trà, nước trái cây, sữa…) có thể được dùng bất cứ lúc nào [7].

f. Những ai phải ăn chay?
Theo Điều 1252 của Bộ Giáo Luật hiện hành, luật ăn chay buộc tất cả mọi người Kitô hữu, từ tuổi thành niên (nghĩa là trọn 18 tuổi [8]) cho đến khi bắt đầu được 60 tuổi (nghĩa là cho đến hết 59 tuổi).
Những người bắt đầu 60 tuổi được miễn khỏi ăn chay, nhưng vẫn phải giữ luật kiêng thịt.

g. Phải ăn chay và kiêng thịt vào những ngày nào?
Phải kiêng thịt và ăn chay trong ngày thứ Tư Lễ Tro và ngày thứ Sáu kính cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta (Điều 1251).

h. Ai có quyền miễn chuẩn việc ăn chay kiêng thịt ?

- Đức Giám Mục giáo phận
Đức Giám Mục giáo phận có thể miễn chuẩn khỏi nghĩa vụ phải ăn chay kiêng thịt trong toàn giáo phận của mình cho những người có cư sở, bán cư sở cũng như người vãng lai.
Ngoài ra, Đức Giám mục cũng có thể miễn chuẩn cho những người thuộc quyền mình kể cả khi họ đang vắng mặt khỏi lãnh thổ giáo phận.

- Linh mục chính xứ
Theo Điều 1245, linh mục chính xứ cũng có năng quyền chuẩn chước như trên với những điều kiện sau đây:
+Khi có lý do chính đáng (x. Điều 90 [9]);
+ Dựa theo những quy định của Giám Mục giáo phận,
+ Trong từng trường hợp, nghĩa là linh mục chính xứ chỉ có thể chuẩn miễn cho từng lần chứ không thể miễn chuẩn dài hạn.

Linh mục chính xứ có thể miễn chuẩn hoặc thay thế việc ăn chay kiêng thịt bằng một việc đạo đức khác, đối với từng cá nhân hoặc gia đình những người thuộc quyền mình, cho dù họ không ở trong địa hạt, đối với những lữ khách hiện đang ở trong địa hạt giáo xứ (nếu không có gì minh nhiên ấn định ngược lại), cho cả chính mình nếu có lý do chính đáng (x. Điều 91 [10]), cho cả cộng đoàn giáo xứ nếu nhu cầu đòi hỏi [11].
Vì đây là quyền thông thường do luật ban cho, cho nên linh mục chính xứ có thể uỷ quyền [12].

- Bề Trên của một hội dòng hay của một tu đoàn tông đồ thuộc luật giáo hoàng
Bề Trên của một hội dòng hay của một tu đoàn tông đồ thuộc luật giáo hoàng cũng có quyền miễn chuẩn đối với những người thuộc quyền mình [13] và những người khác đêm ngày cư ngự trong nhà mình (Điều 1245).
Để xin miễn chuẩn, có thể đích thân đến xin, hoặc sử dụng thư từ, điện thoại, điện tín, hoặc qua trung gian người thứ ba.
———-
Chú thích:
1. Lễ trọng cũng được, chứ không cần phải là lễ buộc.
2. Bộ Giáo Luật cũ (1917) buộc mọi người ngay từ 7 tuổi trọn.
3. Thí dụ: kiêng thịt hay kiêng thức ăn nào khác.
4. Những ngày lễ Công Giáo 2007-2008, tr. 21-22.
5. Điều 919 §1. Ai muốn rước Thánh Thể thì ít là trong khoảng một giờ trước khi rước lễ phải kiêng mọi thức ăn, thức uống, chỉ trừ nước lã và thuốc chữa bệnh.
6. Bữa nào tuỳ ý, không cấm đưa bữa trưa lên bữa tối, và bữa tối xuống bữa trưa.
7. x. PHAOLÔ VI, Tông hiến Paenitemini, III, 1-2.
8. Điều 97 §1: Người tròn 18 tuổi là thành niên, dưới tuổi đó là vị thành niên.
9. Điều 90:
§1. Không được chuẩn chước luật Giáo Hội khi không có lý do chính đáng và hợp lý, sau khi đã cân nhắc các hoàn cảnh và sự hệ trọng của chính luật được chuẩn chước, nếu không, việc chuẩn chước là bất hợp pháp và – trừ khi do chính nhà làm luật hay người trên ngài đã chuẩn chước – việc chuẩn chước còn bất thành sự nữa.
§2. Khi hồ nghi có đủ lý do hay không thì việc chuẩn chước thành sự và hợp pháp.
10. Điều 91: “Ai có quyền chuẩn chước thì kể cả khi ở ngoài địa hạt của mình, vẫn có thể thi hành quyền ấy đối với các người thuộc quyền, mặc dù họ không ở trong địa hạt, và nếu không minh nhiên quy định nghịch lại, thì còn có thể thi hành quyền ấy đối với cả những kiều cư hiện đang ở trong địa hạt, cũng như đối với chính mình nữa”.
11. x. Communicationes, 1980, tr. 358, Điều 43.
12. x. Điều 136-144.
13. Kẻ thuộc quyền là tu sĩ, tập sinh được chuẩn miễn bất cứ họ đang ở đâu vì là năng quyền đối nhân.

3. Dâng Hoa Kính Đức Mẹ

1/ Một vài nét về nguồn gốc tháng hoa và việc dâng hoa:
Vào những thế kỷ đầu, Hoa được coi là Nữ thần của mùa Xuân. Vì thế, tháng Năm, tháng khởi đầu Mùa Xuân, người Rôma có tập tục tổ chức ngày lễ tôn kính Hoa cũng là tôn kính Nữ thần mùa Xuân.
Các tín hữu Công giáo đã thánh hóa tập tục trên khi tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.
Từ thế kỷ XIII, vào tháng Năm, một vài xứ đạo ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã tổ chức những cuộc rước hoa đem đến dâng kính Đức Mẹ. Nhiều văn nghệ sĩ đã sáng tác các bài ca dùng màu sắc và hương hoa để diễn tả tâm tình con thảo ca tụng các nhân đức cao quý của Đức Mẹ.
Các linh mục dòng Tên tại Roma đã tổ chức tháng hoa kính Đức Mẹ tại lưu xá các sinh viên của Hội Dòng. Khi trở về, các sinh viên này đã đem truyền bá việc tổ chức Tháng Hoa tại quê hương của họ. Vì thế, tập tục này được phát triển tại nhiều nơi.
Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và lấy hoa trang hoàng tượng Đức Mẹ.
Thánh Philipe Nêri, vào ngày 1 tháng 5, đã quy tụ các trẻ em chung quanh bàn thờ Đức Mẹ, để cùng các bông hoa mùa xuân, Người dâng cho Đức Mẹ các nhân đức còn ẩn náu trong tâm hồn non trẻ của chúng.
Đầu thế kỷ 17, tại Napoli, nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng Đức Mẹ được cử hành công cộng: Mỗi buổi chiều đều có chầu Mình Thánh Chúa và hát mừng Đức Mẹ. Từ đó, việc tổ chức các hoạt động phượng tự đặc biệt trong tháng Đức Mẹ được nhanh chóng lan rộng khắp các xứ đạo.
Năm 1654, cha Nadasi, dòng Tên, xuất bản tập sách nhỏ khuyên mời giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời.
Đầu thế kỷ 19, tất cả các giáo xứ trong Giáo Hội đều tổ chức long trọng việc mừng kính Đức Mẹ trong tháng Năm, tháng kính Đức Mẹ. Các nhà thờ có các linh mục giảng thuyết về lòng sùng kính Đức Mẹ. Cha Chardon đã có nhiều công trong việc này. Không những Người làm cho lòng sốt sắng trong tháng Đức Mẹ được phổ biến trong nước Pháp mà còn ở mọi nước Công giáo khác nữa.

2/ Giáo huấn của Hội Thánh về việc tôn sùng Đức Mẹ:
Năm 1815, Đức Thánh Cha Piô VII đã khuyến khích việc tôn sùng Đức Maria trong tháng Năm.
Năm 1889, Đức Thánh Cha Piô IX đã ban ơn toàn xá cho những ai tham dự việc đạo đức tôn kính Đức Mẹ.
Đức Thánh Cha Piô XII, trong Thông điệp "Đấng Trung gian Thiên Chúa", nhấn mạnh "việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ".

Năm 1965, Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành Tông huấn đề cao lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria trong tháng 5. Qua đó, Người cũng nêu lên những giá trị cao quý của việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm: "Tháng Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng. Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ những tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai toà rất dồi dào của Đức Mẹ" (Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ, số I).
Đức Thánh Cha mở đầu tông huấn bằng những lời diễn tả tâm tình Tháng kính Đức Mẹ thật đáng để chúng ta ghi nhớ:

2. “Tôi lấy làm vui mừng và an ủi bởi thói quen đạo đức liên kết với Tháng Năm, là tháng dành dâng kính Đức Trinh Nữ và mang lại nhiều lợi ích cho dân Kitô giáo. Bởi vì một cách đúng đắn, Đức Maria được xem như một con đường mà qua đó chúng ta được dẫn tới Chúa Kitô, người nào gặp gỡ Đức Maria thì không thể không gặp gỡ Đức Kitô như vậy. Vì lý do nào khác mà chúng ta lại không tiếp tục trở về với Đức Maria để tìm kiếm Đức Kitô trong cánh tay của Mẹ, tìm gặp Đấng Cứu Độ chúng ta trong, qua và với Mẹ? Con người cần phải trở về với Đức Kitô trong thế giới đầy lo âu và nguy hiểm, thôi thúc bởi trách nhiệm và nhu cầu cấp bách của trái tim con người hầu tìm thấy một nơi ẩn trú an toàn và một mạch nước sự sống siêu việt".

Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng đã đặt lại chỗ đứng của việc tôn kính Đức Mẹ Maria, nghĩa là việc tôn kính Mẹ Maria phải được đặt vào trong tương quan của mầu nhiệm ơn cứu rỗi, việc tôn kính Đức Mẹ phải được đi đôi với những mầu nhiệm trong cuộc đời của Đức Kitô. Việc tôn kính Mẹ Maria trong tháng Năm là một truyền thống tốt đẹp, nhưng nhờ Mẹ Maria để đến với Chúa, cùng đích của mọi việc tôn thờ là chính Chúa. Trong niềm hiếu thảo đối với Mẹ Maria, người Kitô hữu luôn được mời gọi để không ngừng kết hiệp với Chúa. Người Kitô hữu không nhìn lên Mẹ Maria như một Nữ Thần, mà là một tín hữu mẫu mực, một người tín hữu đã tiên phong trong cuộc hành trình đức tin.

Việc sùng kính Đức Maria còn bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi vì: nhờ Người, với Người và trong Người, mọi vinh quang, danh dự đều quy về Cha trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần. Vì vậy, những biểu hiện tỏ lòng tôn kính Mẹ Maria cần phải dẫn đến việc tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.

3/ Giáo huấn của Hội Thánh về việc đạo đức bình dân:

Ðức Thánh Cha Bênêđictô XVI đề cao tầm quan trọng của lòng đạo đức bình dân nhưng Người nói lòng đạo đức bình dân luôn luôn phải được thanh tẩy.
Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 8 tháng 4 năm 2011, dành cho Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu la tinh, Ðức Thánh Cha Biển Ðức 16 đề cao lòng đạo đức bình dân như một yếu tố quan trọng trong công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng tại đại lục này.

Ngỏ lời với gần 50 Hồng Y, Giám Mục và các Linh Mục chuyên gia, Ðức Thánh Cha khẳng định rằng lòng đạo đức bình dân là một môi trường gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô và là một hình thức biểu lộ đức tin của Giáo Hội. Vì thế, "không thể coi yếu tố này như một cái gì phụ thuộc trong đời sống Kitô, vì nếu làm như thế có nghĩa là quên mất tầm quan trọng tối thượng hoạt động của Chúa Thánh Linh và sáng kiến nhưng không của tình yêu Chúa".

Trong bài diễn từ, Đức Thánh Cha đã nhắc đến việc đạo đức bình dân như "một nơi chốn gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, và một cách để bầy tỏ đức tin của Giáo Hội." Đối với Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, nếu việc đạo đức này được "quy hướng cẩn thận và được kèm theo đầy đủ" bằng các lối diễn tả khác của lòng mộ đạo bình dân "sẽ cho phép có một cuộc gặp gỡ có kết quả tốt với Thiên Chúa, một sự tôn thờ Thánh Thể, một lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria." Điều này cũng cho phép trau dồi một "lòng ái mộ người kế vị Thánh Phêrô và một ý thức mình thuộc về Giáo Hội." Tất cả những điều ấy cũng giúp ích cho việc rao giảng Tin Mừng, thông truyền đức tin, để đưa các tín hữu đến gần các bí tích, củng cố những liên hệ bằng hữu, đoàn kết gia đình và cộng đoàn, cũng như gia tăng tình liên đới và thực thi bác ái".

Ðức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng "cần làm sao để đức tin là nguồn mạch chính của lòng đạo đức bình dân, để những việc đạo đức này không phải chỉ là một biểu lộ văn hóa của một miền nào đó. Hơn nữa, lòng đạo đức bình dân cần ở trong quan hệ chặt chẽ với Phụng vụ thánh, phụng vụ này không thể bị thay thế bằng một biểu hiện tôn giáo nào khác."

Ðức Thánh Cha không quên ghi nhận “có một số hình thức sai trái của lòng đạo đức bình dân, chúng không cổ võ sự tham gia tích cực trong Giáo Hội, chúng tạo nên sự xáo trộn và có thể chỉ giúp thực hành các việc đạo đức hoàn toàn bề ngoài mà không ăn rễ sâu nơi đức tin nội tâm sinh động". Trong một bức thư gửi cho các chủng sinh, Người viết: "Lòng đạo đức bình dân có thể đi tới thái độ vô lý và chỉ hời hợt bề ngoài. Tuy nhiên, nếu hoàn toàn loại bỏ lòng đạo đức bình dân thì thật là điều sai lầm. Qua lòng đạo đức này, đức tin đi vào tâm hồn con người, trở nên thành phần tình cảm, phong phục và cảm thức sống chung của họ. Vì thế, lòng đạo lức bình dân luôn luôn là một gia sản lớn của Giáo Hội, nhưng chắc chắn cũng luôn phải thanh tẩy lòng đạo đức này...”

4/ Việc dâng hoa tại Việt Nam:
Để bày tỏ lòng tôn kính đối với Đức Mẹ, người tín hữu Việt Nam thực hành nhiều việc đạo đức bình dân như: rước kiệu Đức Mẹ, lần chuỗi Mân Côi, dâng hoa…

4.1) Ý nghĩa của việc dâng Hoa kính Mẹ.
Để bày tỏ lòng yêu mến, kính trọng hoặc biết ơn, người ta thường tặng hoa cho nhau. Cũng vậy, người công giáo cũng dâng hoa để tỏ lòng yêu mến, tôn kính và biết ơn đối với Thiên Chúa, Đức Mẹ và các thánh...

4.2) Ý nghĩa các mầu hoa:
Các màu hoa vừa tượng trưng cho các nhân đức của Đức Mẹ vừa diễn tả các tâm tình, các ước nguyện của con cái muốn dâng lên Mẹ.

- HOA TRẮNG:
+ Ý  nghĩa: biểu trưng sự trong sạch khiết trinh nơi Mẹ.
+ Tâm tình: Xin Mẹ giúp ta gìn giữ tâm hồn luôn trong trắng, sạch tội.
- HOA HỒNG:
+ Ý  nghĩa: diễn tả lòng mến nồng nàn mà Mẹ dành cho Chúa.
+ Tâm tình: Xin Mẹ dạy ta biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh chị em như Chúa đã yêu ta.
- HOA VÀNG:
+ Ý  nghĩa: tượng trưng niềm tin sắt đá của Mẹ.
+ Tâm tình: Xin Mẹ dạy chúng ta sống phó thác, tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Chúa như Mẹ.
- HOA XANH:
+ Ý  nghĩa: tượng trưng cho niềm cậy trông và hy vọng.
+ Tâm tình: Xin đừng để ta thất vọng chùn bước trước bất cứ khó khăn nghịch cảnh nào của cuộc sống.
- HOA TÍM:
+ Ý  nghĩa: tượng trưng những đau thương, bệnh tật, tang tóc, cô đơn.
+ Tâm tình: Xin Mẹ dạy ta biết vui lòng chấp nhận Thánh Giá Chúa gởi đến để trung thành bước theo Đức Kitô, Con của Mẹ.

5/ Cấu trúc một buổi dâng hoa truyền thống:
Nghiên cứu lại vãn Hoa Đức Mẹ ngày xưa, ta thấy bố cục của buổi dâng hoa rất rõ ràng. Thông thường cấu trúc một buổi dâng hoa gồm 3 phần.

Phần I: Sau khi cộng đoàn rước tượng Đức Mẹ vào nhà thờ (hoặc lễ đài - nếu cử hành thánh lễ ngoài trời), đặt tượng lên toà thì bắt đầu cất tiếng hát.
+ Bái vịnh: Ngũ bái thờ lạy Ba ngôi Thiên Chúa, tôn kính Đức Mẹ, Thiên thần và các Thánh.

Phần II: Gồm:
+ Ca ngợi các nhân đức của Đức Mẹ.
+ Tiến hoa ngũ sắc: Từng đôi con hoa đỏ, trắng, vàng, tím, xanh.
+ Dâng 7 loài hoa quí (quì, sen, lê, cúc, mai, mẫu đơn, lan) để ca tụng Đức Mẹ.

Phần III: Cảm tạ - Tạ ơn Chúa. Tạ ơn và cầu khẩn với Đức Mẹ

6/ Một mẫu Vãn Hoa Dâng Kính Đức Mẹ
(Trích  Sách Toàn niên Kinh nguyện, Bùi chu 248- 259)
(Trích nguồn “Ca Mừng Đức Mẹ Mân Côi” của GP Bắc Ninh)
 (Nguồn : gxdaminh.net)
Sau khi rước kiệu và khi đã đặt tượng Đức Mẹ lên tòa, đội dâng hoa sẽ để hoa xuống hai bên nơi đã dọn sẵn, chắp tay lại và đọc những lời sau:

I. KHAI HOA
Lạy ơn Đức Mẹ Chúa Dêu (Deus),
Chúng tôi trông cậy cùng kêu van Bà.
Xin hằng bầu cử trước toà,
Tỏ ra lòng Mẹ rất là yêu con.
Trong nơi khổ ải chon von,
Cách xa mặt Mẹ hãy còn lầm than.
Chúa Con xưa xuống thế gian,
Chẳng từ bỏ kẻ gian ngoan tội tình.
Lại cam chịu khổ chịu hình,
Vì loài người thế liều mình đền xong.
Mẹ thương cũng hợp một lòng,
Vâng theo ý Chúa thông công như vầy.
Con xin Mẹ rất nhân thay,
Chớ bao ngoảnh mặt làm khuây chẳng nhìn.
Xin hằng dạy dỗ con liên,
Cùng hằng yên ủi giữ gìn thương yêu.
Con trông Mẹ có phép nhiều,
Muôn vàn thần thánh cũng đều ngửa trông
Chúng con còn chốn long đong
Như người vượt bể mênh mông giữa vời.
Mẹ như sao ngự giữa trời,
Chính bên phương bắc các ngôi sao chầu.
Xin soi dẫn để con theo,
Kẻo con lạc lối sa vào trầm luân.
Đến sau qua khỏi cõi trần,
Con trông cậy Mẹ rộng phần lòng thương.
Liền đem vào cửa thiên đàng,
Được xem thấy Chúa cực sang cực lành.
Cùng xem thấy Mẹ đồng trinh
Hưởng muôn muôn phúc thần hình thảnh thơi.
Gồm đầy mọi sự tốt vui,
Chẳng cùng chẳng hết đời đời. Amen.
II. NGŨ BÁI
Chúng con mọn mạy phàm hèn,
Dám đâu ghé mắt trông lên bàn thờ.
(Cúi đầu xuống)
Ngửa xin tràn xuống ơn thừa,
Rộng ban giãi tấm lòng thơ trước toà.
(Dẫn: Năm câu "Chúng con lạy"phải bái quì năm lần).
1. Chúng con lạy Chúa Cha nhân  thứ
Đã giữ lời phán hứa rủ thương.
Dựng nên rất thánh Nữ vương,
Gây nền mọi phúc treo gương muôn đời.
2. Chúng con lạy Ngôi Hai xuống thế,
Cứu loài người chẳng để cho hư.
Lại thương trối Mẹ nhân từ,
Để loài con mọn được nhờ mọi ơn.
3. Chúng con lạy Thánh Thần Chúa cả.
Cho Đức Bà phúc lạ ơn đầy,
Cùng lòng rộng rãi nhân thay.
Để con mọn được ăn mày phần thương.
4. Chúng con lạy Nữ vương Thánh mẫu,
Chúa Ba Ngôi yêu dấu cách riêng.
Trên trời dưới  đất cầm quyền,
Mọi loài đáng phải không khen bội phần.
5. Chúng con lạy Thiên thần các thánh
Đang vui mừng trong tính Chúa Dêu.
Đẹp lòng Đức Mẹ thương yêu
Vốn hằng chầu chực xin điều ngợi khen.

 III. DÂNG HOA
III.1 Ngợi ca các nhân đức Đức Mẹ
Chúng con bồ liễu phận hèn,
Ơn thương đã được bước lên lạy mừng. (Bái xuống)
Đoá hoa khóm nóm tay bưng. (Cầm lấy hoa)
Tấc niềm cần bộc xin từng tỏ ra. (Quỳ)
Quì trước í a dâng hoa
Đền vàng quỳ trước dâng  hoa
Trông lên tháp báu thấy tòa Ba Ngôi (Đứng lên)
Nhân đức í a gương soi,
Mười hai nhân đức gương soi,
Kính dâng Đức Mẹ đời đời ngửa trông. (Bái xuống)
Vì xưa Thiên Chúa dủ lòng, (bái)
Chọn làm Thánh Mẫu bởi dòng thánh quân
Ngành vàng lá ngọc khác trần,
Sinh Ngôi Thánh tử đồng thân trọn đời. (Bái xuống)
Giúp công cứu chuộc đền bồi,
Ơn trên thông xuống cho loài sinh linh.
Tràng châu mở cảnh tràng sinh,
Trồng cây cực tốt cực lành Rosa.
Đượm nhuần vũ lộ thi-a, (gratia)
Bốn mùa hoa nở rum  ra lạ lùng.

III.2 Năm Sắc Hoa
Nhiệm thay hoa đỏ hồng hồng,
Nhuộm thêm Máu thánh thơm chung lòng người.
Vì thương Con gánh tội đời,
Chịu như dao sắc thâu nơi lòng mình.
Xinh thay hoa trắng tốt lành,
Ví cùng nhân đức đồng trinh Đức Bà.
Nguyên tuyền hơn ngọc hơn ngà,
Sáng trong hơn tuyết cùng là hơn gương.
Quí thay này sắc hoa vàng
Sánh nhân đức mến Bà càng trọng hơn.
Một niềm tin kính nhơn nhơn,
Vững vàng cậy mến trong cơn vui sầu,
Dịu thay hoa tím càng màu.
Ý trên bà những cúi đâu vâng theo.
Bằng lòng chịu khó trăm chiều,
Khiêm những nhịn nhục hằng yêu hãm mình.
Lạ thay là sắc hoa xanh.
Mừng Bà nhân đức trọn lành cực cao.
Dờn dờn sau trước một màu,
Quản chi sương nắng dãi đầu ngày đêm.
Hoa năm sắc đã giãi niềm,
Lại trưng cổ điển dâng thêm kinh đề.

 III.3 Bảy Loại Hoa
Đức Bà thờ Chúa một bề,
Hoa quì chăm chắm hướng về thái dương.
Tội Nguyên không nhiễm khác thường.
Hoa sen trên nước chẳng vương bùn lầy.
Lòng đầy thánh sủng giáng lâm,
Hoa lê tuyết đượm mầu thơm khác vời.
Tuổi cao phúc đức càng đầy,
Lạ lùng hoa cúc nở ngày vãn thâu.
Toà cao thần thánh kính chầu,
Hoa mai đỉnh núi nở đầu trăm hoa.
Muôn loài cám mến âu ca,
Hoa đơn phú quý gần xa vui vầy.
Các ơn Chúa phó trong tay,
Hoa lan vương giả hương bay ngạt ngào.

III.4 Diễn ý hoa đã dâng
Bảy hoa mượn chỉ nghĩa mầu,
Hình dong ơn phúc kính tâu ngợi mừng.
Hợp cùng năm sắc điều dâng,
Dường mười hai ngọc kết tầng triều thiên.
Còn muôn phúc cả ơn riêng,
Trăm hoa khôn khá sánh khen được nào.
Chúng con đang chốn phong đào,
Mong gieo hạt giống e vào bụi gai.
Cậy trông Đức Mẹ nhân thay, (Bái xuống)
Rủ thương vì chúc tụng này cùng hoa.
Lòng thốn thảo, đóa linh pha,
Xin điều dâng tiến trước toà Ba Ngôi.
Diện tiền cầu khẩn thay lời,
Đằm đằm mưa móc trên trời tưới liên.
Thêm ơn vun xới cách riêng,
Ruộng thiêng sạch cỏ mọc lên chốn lành.
Hoa nhân trái phúc đủ ngành,
Đời này dùng đủ lại dành đời sau.

IV. CẢM TẠ VÀ KẾT HOA
Tấc thành đã được giãi tâu,
Dám xin hợp ý khấu đầu tạ ơn. (Cúi đầu xuống)
Đội ơn Chúa rất khoan nhân, (bái)
Đã cho con mọn kính dâng hoa này.
Đội ơn Thánh tử ngôi Hai, (bái)
Đã cho con mọn được thay thảo thờ.
Đội ơn Đức Mẹ nhân từ (bái)
Đã cho con mọn ngây thơ ngợi mừng
Tấm lòng xin với hoa dâng,
Giãi niềm thảo kính vốn từng thần hôn.
Chúng con dâng cả xác hồn,
Xin thương chịu lấy chúng con đừng từ
Ban ơn cho chúng con nhờ,
Được lòng sốt sắng phượng thờ cho liên.
Đời này được sự bằng yên,
Đời sau lại được ngợi khen hát mừng.
Amen.
Ghi chú : Có một vài từ được phiên âm thay vì phiên dịch
              – Chúa Dêu : Deus tiếng la tinh là Thiên Chúa.
              – Mở đóa “Thi-a” : Gratia theo tiếng la tinh là ân sủng

7/ Buổi dâng hoa của Giáo xứ vùng Tây Nguyên nói chung, và của Giáo xứ Kon Rơbang nói riêng.
Mọi người ngồi tại nhà thờ tham dự từ đầu chí cuối, và trong khi  tham dự, họ cùng hát những bài ca quen thuộc bằng tiếng dân tộc hòa theo tiếng cồng chiêng rất sốt sắng. Cuối giờ dâng hoa, mỗi người đem một cành hoa lên dâng trước tòa Mẹ.
Sau phần khai mạc của linh mục, toàn thể cộng đoàn cùng rước kiệu Mẹ từ sân nhà các Yă (các nữ tu dân tộc) vào nhà thờ cách nhau khoảng 300 mét. Tiếp đến, lần lượt 10 nhóm dâng hoa, khởi đầu là các em ấu nhi, rồi đến thiếu nhi, các thiếu nữ, các bà mẹ mới lập gia đình rồi đến các cụ bà. Mỗi nhóm một loại đồng phục khác nhau, hấu hết là mang mầu sắc dân tộc nhưng cũng có nhóm giới trẻ đang đi học cấp ba, lại thướt tha trong bộ áo trắng dài của người kinh. Mỗi người cầm một bó hoa trong tay mà họ hái từ trong vườn hoặc cũng có đi mua chút đỉnh. Tất cả cùng tràn ngập niềm vui dâng lên Mẹ những điệu múa hát, những nhánh hoa tươi thắm, những ngọn nến lung linh.
Sau mỗi nhóm dâng hoa khoảng chừng năm đến bảy phút, họ cùng quỳ lần hạt Mân côi chung. Trước khi kết thúc, hầu hết mọi người tham dự xếp hàng lần lượt lên bàn thờ đích thân dâng một hoặc vài nhánh hoa lên Mẹ, tỏ lòng thảo kính của người con đối với Mẹ hiền kính yêu.
Việc dâng hoa của của người dân tộc không cầu kỳ hay phức tạp, cũng chẳng cần đầu tư luyện tập quá công phu. Nhưng nhờ có sẵn hồn âm nhạc và khả năng tập luyện ca múa rất nhanh, dân làng hoà nhịp theo tiếng đàn, tiếng cồng chiêng với những bước chân nhún nhảy nhẹ nhàng, những cử điệu múa rất đơn sơ và giản dị như chính cuộc sống của người Tây nguyên. Tất cả như muốn bày tỏ một tâm tình:
“Con đến dâng Mẹ đoá hoa lòng
Này lạy Mẹ đoàn con dâng tiến.
Xin Mẹ, xin Mẹ thánh hiến
Ôi lạy Mẹ ấp ủ con liên”      (An Di)
 8/ Một vài ghi nhận:
Có thể nói việc dâng hoa kính Đức Mẹ đã có nhiều thay đổi. Ta tạm gọi là dâng hoa theo truyền thống và dâng hoa cách tân. Có nhiều ý kiến trái chiều về cả hai cách này. Xin ghi lại đây một vài ý kiến tiêu biểu.
a/ Dâng hoa theo truyền thống:
+ Ý kiến thuận:
- Nghiêm trang hơn, có bầu khí cầu nguyện hơn, có tính cộng đoàn hơn khi mọi người đều có thể hát chung với nhau.
+ Ý kiến nghịch:
- Đơn điệu, nhàm chán, không hấp dẫn, không còn phù hợp với thời đại hôm nay nữa.
 b/ Dâng hoa “cách tân”:
+ Ý kiến thuận:
- Đáp ứng đúng nhu cầu và thị hiếu của con người thời đại hôm nay (?) vì sử dụng những kỹ xảo, các phương tiện kỹ thuật, trang phục hiện đại và những vũ điệu mang tính nghệ thuật cao và vì thế thu hút hơn.

+ Ý kiến nghịch:
- Không đúng với bài bản nguyên thủy của việc dâng hoa.
- Ngày nay người ta “múa hoa” hơn là “dâng hoa” theo nghĩa là nhiều đội hoa chạy theo trào lưu ca múa của thời đại. Có thể nói một cuộc “dâng hoa” như thế trông rất đẹp mắt, hoàng tráng, nhưng nặng phần trình diễn bên ngoài: Trình diễn về âm nhạc, về trang phục, về cử điệu màu mè…
- Thiếu tâm tình cầu nguyện và dâng tiến bên trong. Nó mang diện mạo của một tụ điểm sân khấu để mua vui thôi.
- Không đúng với ý nghĩa của việc đạo đức mà chỉ là những shows diễn sân khấu hoặc truyền hình khi sử dụng “các liên khúc dâng hoa”, một sự chắp nối ngẫu hứng tùy tiện, nhạt nhẽo, lai căng, vô cảm, vô hồn.
- Thiếu tính cộng đoàn. Cộng đoàn chỉ như những khán giả ngồi xem một màn trình diễn chứ không thể tham dự cách tích cực vào việc đạo đức này. Họ “xem dâng hoa” hơn là “dâng hoa”.
- Nhiều nơi tổ chức những buổi “Hội Hoa” nghĩa là có hai, ba, bốn, năm… đội dâng hoa. Nếu tổ chức như một buổi giao lưu, học hỏi thì có thể chấp nhận được. Nếu tổ chức trong một buổi đạo đức thì việc này chỉ mang tính thi đua chứ không giúp gì cho việc cầu nguyện. Những người có mặt chỉ đóng vai giám khảo, bình luận, khen chê: đội này quần áo đẹp, đội kia nhiều hoa đắt tiền, đội khác chọn bài hát hơi dài nhưng mới lạ, đội kia nữa thì đông mà khá đều…
- Nhiều đội hoa chỉ làm động tác theo một bài hát trong CD do một ca sĩ, hay một ca đoàn hát. Không phải người dâng hoa hát, cộng đoàn thì hầu như không ai thuộc được chữ nào, câu nào. Việc sử dụng nhạc ghi âm trong buổi dâng hoa hoàn toàn đi ngược lại kỷ luật về thánh nhạc.
Tài liệu hướng dẫn Mục Vụ Thánh Nhạc đã quy định:
Số 88) Nhạc ghi âm thiếu đi tính xác thực mà cộng đoàn phụng vụ sống động được quy tụ cần phải có khi cử hành Phụng vụ thánh. Trong khi nhạc ghi âm có thể được sử dụng có nhiều lợi ích hơn ngoài phụng vụ như là sự trợ giúp cho việc giảng dạy những bản nhạc mới. Còn theo nguyên tắc chung không được phép sử dụng nhạc ghi âm trong phụng vụ.
Số 99) Cần ghi nhận một số trường hợp ngoại lệ về việc sử dụng nhạc ghi âm. Nhạc ghi âm có thể được phép sử dụng kèm với bài hát của cộng đoàn khi đang đi rước ngoài thánh lễ, được dùng một cách cẩn trọng khi cử hành thánh lễ dành cho trẻ em. Đôi lúc được dùng để giúp cầu nguyện, thí dụ trong thời gian thinh lặng dài khi cử hành bí tích hòa giải chung. Tuy nhiên, nhạc ghi âm không khi nào được thay thế việc ca hát của cộng đoàn.

Thay lời kết:
Xin được nhắc lại lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI: “có một số hình thức sai trái của lòng đạo đức bình dân, chúng không cổ võ sự tham gia tích cực trong Giáo Hội, chúng tạo nên sự xáo trộn và có thể chỉ giúp thực hành các việc đạo đức hoàn toàn bề ngoài mà không ăn rễ sâu nơi đức tin nội tâm sinh động"… "Lòng đạo đức bình dân có thể đi tới thái độ vô lý và chỉ hời hợt bề ngoài. Tuy nhiên, nếu hoàn toàn loại bỏ lòng đạo đức bình dân thì thật là điều sai lầm. Qua lòng đạo đức này, đức tin đi vào tâm hồn con người, trở nên thành phần tình cảm, phong phục và cảm thức sống chung của họ. Vì thế, lòng đạo đức bình dân luôn luôn là một gia sản lớn của Giáo Hội, nhưng chắc chắn cũng luôn phải thanh tẩy lòng đạo đức này...”

Thanh tẩy như thế nào là điều cần suy nghĩ. Điều này chắc không thể phó mặc cho những người phụ trách các đội hoa nơi các giáo xứ. Nó cần đến sự quan tâm của các Đấng Bản Quyền và của những người có trách nhiệm trực tiếp trong lãnh vực Phụng tự sao cho việc dâng hoa không bị biến chất, không bị tục hóa bởi những “sáng kiến” nặng phần trình diễn hơn là xây dựng bầu khí cầu nguyện cho bản thân người dâng hoa và cho cả cộng đoàn.
Lm. Phạm Minh Tâm (tổng hợp)

4. Có ''Thánh Lễ Kèm Chầu Mình Thánh Chúa” Không?
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô, giáo sư phụng vụ tại Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Một trong các cha xứ của giáo xứ chúng tôi đã từng nói rằng trong một Thánh Lễ có chầu Mình Thánh Chúa đi theo, việc ban phép lành và nghi thức giải tán cuối lễ không được thực hiện, bởi vì phép lành sẽ được thực hiện với việc giơ cao hào quang, và rằng Thánh Lễ không hoàn thành cho đến sau khi chầu Mình thánh, khi lời "Ite Missa est" (Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an) được nói. Còn các cha xứ khác của giáo xứ chúng tôi, kể cả cha xứ hiện nay, chưa bao giờ nghe nói về điều này trước đó. Xin cha vui lòng làm sáng tỏ điều này. - J.M., Sydney, Australia.

Đáp: Trước tiên, tôi nghĩ rằng cần phải nói rõ rằng các qui định hiện nay không hề nói đến một "Thánh Lễ kèm chầu Mình Thánh Chúa”. Điều này có nghĩa rằng không được phép đặt Mình Thánh Chúa cuối Thánh lễ với mục đích duy nhất là ban phép lành.
Chỉ được phép đặt Mình Thánh Chúa sau hiệp lễ, tốt hơn với một Bánh Thánh được truyền phép trong thánh lễ ấy, nếu có thời gian dài hay ngắn đề chầu Minh Thánh hoặc Rước kiệu Thánh Thề tiếp sau Thánh lễ ấy.
Trong trường hợp này, vì không có phép lành chung được ban trong sự hiện diện của Mình Thánh Chúa được đặt trên bàn thờ, việc không ban phép lành cuối lễ như thế là đúng.
Trong trường hợp có chầu Mình Thánh Chúa liên tục sau Thánh Lễ, phải giữ nghi thức sau đây:
- Mình Thánh Chúa được đặt ngay sau phần rước lễ.
- Linh mục đọc lời nguyện kết thúc. Việc ban phép lành và nghi thức giải tán được bỏ.
- Linh mục và người giúp lễ xếp hàng ở phía trước bàn thờ, bái gối và quỳ xuống.
- Hát một bài thánh ca thờ lạy, Mình Thánh Chúa được xông hương như trong các lần chầu Mình Thánh bình thường, và các linh mục và người giúp lễ quỳ gối một lát và cầu nguyện riêng.
- Tất cả bái gối và quay trở về phòng thánh trong thinh lặng. Việc Chầu Thánh Thể vẫn tiếp tục trong một thời gian nữa, sau đó phép lành được ban qua việc giơ cao hào quang.
Câu "Ite Missa est" (Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an) không được nói, vì Thánh Lễ đã kết thúc trước đó với lời nguyện kết thúc rồi. Nó được bỏ qua cách đơn giản.
(Nguyễn Trọng Đa, Vietcatholic 5-9-2012/ Zenit 4-9-2012)

5. Lần Chuỗi Trong Giờ Chầu Thánh Thể Có Được Không?
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Trong một số quốc gia, chúng ta lần chuỗi Mân Côi và đọc Kinh cầu các thánh trong giờ chầu Thánh Thể. Khi chúng ta tin rằng Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại trọn vẹn, hiện diện trong Phép Thánh Thể, có đúng chăng nếu chúng ta lần chuỗi Mân Côi hay đọc Kinh cầu kính Đức Mẹ Maria? Khi Chúa Kitô hiện diện trước mặt chúng ta, tại sao chúng ta lại đi đường vòng để nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa Giêsu, thay vì cầu nguyện trực tiếp với Chúa Giêsu? Thưa cha, con sẽ rất biết ơn khi nghe cha chỉ bảo, bởi vì con quả thật là bối rối khi thấy điều này xảy ra trong nhà thờ giáo xứ con. Con yêu mến Đức Mẹ và thường cầu nguyện với Đức Mẹ, nhưng đôi khi con cảm thấy rằng chúng ta đặt nặng tầm quan trọng cho Mẹ hơn cho Chúa Giêsu. - T. N., Manathavady, Ấn Độ.

Đáp: Đây là một câu hỏi thường được đặt ra, và chúng tôi đã trả lời trong nhiều dịp, và lần trả lời nhiều và rõ ràng nhất là vào ngày 26-10-2010.
Để tổng hợp lại, chúng tôi nhắc lại rằng vào ngày 15-1-1997, Thánh Bộ Phụng tự trong số 2287/96/L, đã trả lời một thắc mắc, trong đó Thánh bộ nói rõ ràng là được phép công khai lần chuỗi Mân Côi trong giờ chầu Mình Thánh Chúa. Tài liệu nói trên cũng nói đến các động cơ đằng sau việc đọc kinh như thế.
Chúng tôi có thể nói thêm rằng không có gì mâu thuẫn trong việc lần chuỗi Mân Côi trước phép Thánh Thể. Mặc dù chuỗi Mân Côi bề ngoài là một kinh nguyện kính Đức Mẹ, nó cũng tập trung một cách sâu sắc vào Chúa Kitô, qua việc chiêm ngắm các mầu nhiệm. Do đó, thật là có ý nghĩa khi trong "năm sự sáng", do Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đặt ra, có việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể.
Đôi khi người ta quên rằng việc đọc kinh khi lần hạt, chẳng hạn việc đọc kinh Kính Mừng nhiều lần, là trên hết giúp linh hồn đi vào chiêm ngắm mầu nhiệm. Bản thân các mầu nhiệm là các điểm nổi bật trong đời sống của Chúa Cứu Thế, và một số mầu nhiệm đụng đến vai trò của Đức Mẹ Maria trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa cho loài người.
Vì vậy, thật ra việc lần chuỗi Mân Côi trong bất cứ tình huống nào cũng luôn đem chúng ta đến gần Chúa Kitô hơn, và không bao giờ đặt tầm quan trọng cho Đức Mẹ hơn là cho Chúa Kitô. Nếu chúng ta cho là Mẹ quan trọng hơn Chúa, thì điều này có nghĩa rằng chúng ta cần học hỏi cách thức cầu nguyện như Giáo Hội, và chính Đức Mẹ, mong muốn cầu nguyện với Chúa ra sao.
(Nguyễn Trọng Đa, Zenit.org 4-10-2011)


NHỮNG HƯỚNG DẪN NÀY ĐÃ ĐƯỢC ĐỨC GIÁM MỤC GIÁO PHẬN
CHUẨN NHẬN VÀ KÊU MỜI QUÝ CHA VÀ ANH CHỊ EM THỰC HIỆN. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét