ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICO MẶC ÁO MỚI CHO NỀN NGOẠI GIAO CŨ
Từ khi được bầu lên ngai tòa
Thánh Phêrô, Đức Phanxicô đã nối lại tinh thần đi du hành để giao tiếp
của Đức Gioan-Phaolô II. Thân cận với ngài là các nhà ngoại giao tinh
nhuệ, ngài biết cách giao tiếp, biết cách làm dịch chuyển các đường phân
ranh.
Từ đảo Lampedusa với người di dân ở Ý đến
nạn diệt chủng của người Armênia, Đức Phanxicô chứng tỏ mình dám làm
hơn bất cứ nguyên thủ quốc gia nào, tuy nhiên đường lối chính trị của
ngài vẫn là đường lối chính trị thực tiễn cổ điển.
Cách đây vài tháng, trong một buổi trình
ủy nhiệm thư, Đức Phanxicô đã cho thấy tầm nhìn về đường lối ngoại giao
của mình. “Công việc của người đại sứ là làm từng bước nhỏ, những việc
nhỏ, nhưng cuối cùng họ luôn kết thúc bằng việc xây dựng hòa bình, xích
lại gần tâm hồn mọi người, gieo tình huynh đệ giữa mọi người.”
Và để gieo tình huynh đệ, Đức Phanxicô
không ngại khi phải cố gắng hết sức để làm. Trong hai năm triều giáo
hoàng của mình, ngài đã đi đến Đất Thánh, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Hàn, Ba Tây,
Albania, Nghị viện Âu Châu, Sri Lanka, Phi Luật Tân. Sắp đến ngài sẽ đi
các nước Mỹ, Bosnia, Châu Mỹ La Tinh, Cuba, Phi Châu và Pháp.
Đức Phanxicô dẫn dắt một nền ngoại giao
được giới truyền thông nói đến rất nhiều, đáng kể nhất là quan hệ của
ngài với giáo sĩ Do Thái Abraham Skorka và giáo sư Hồi giáo Omar Abboud,
cả hai là bạn người Argentina của Đức giáo hoàng, đã đi theo ngài đến
Giêrusalem năm 2014 và một sự việc cũng đáng kể khác là ngài mời Tổng
thống Israel Shimon Peres và Tổng thống Palestina Mahmoud Abbas đến Vườn
Vatican cầu nguyện.
Tuy vậy Đức Thánh Cha lại đi theo dấu vết
xưa cổ nhất, đây cũng là một nền ngoại giao cực mạnh nhất của thế
giới, một nền ngoại giao áp dụng các đức tính chủ yếu là cẩn thận và ôn
hòa với sự có mặt tòa đại sứ của mình ở 180 nước, có quy chế Quốc gia
nghĩa là có quan sát viên trong các thể chế quốc tế như ONU, UNESCO,
OMC, AIEA. Bây giờ, lịch làm việc của ngài về mặt chính trị chủ yếu chú
trọng đến việc xây dựng hòa bình, bảo vệ môi trường và những vấn đề lớn
khác về mặt xã hội, tôn giáo và kinh tế, nơi ngài nắm uy quyền về mặt
đạo đức, vừa công giáo vừa từ bán cầu phía Nam chống lại sự “dửng dưng
toàn cầu”.
Thành công trong vụ Cuba
Một trong những thành công nổi bật nhất
của nền ngoại giao này là cú xích lại ngoạn mục giữa Washington và La
Havana. Vatican quả thật có đặc tính độc đáo riêng của mình, không quan
tâm đến những chuyện nhất thời, không đòi lãnh thổ và xa tất cả những hệ
lụy thương mại. Ở Cuba, các Đức ông, các giám chức của Giáo triều đã
đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với
Washington mà chúng ta vừa thấy. Vatican là nơi để thực hiện các trao
đổi tuyệt mật, nơi đón tiếp để có những cuộc thảo luận giữa Raul Castro
và Barack Obama. Đức Phanxicô, là hình ảnh của nhà làm cách mạng, đã
theo bước chân của Đức Gioan XXIII, người giữ một vai trò trọng tâm
trong cuộc khủng hoảng tên lửa năm 1962 giữa tổng thống người công giáo
Kennedy và chủ tịch xô-viết vô thần Khrouchtchev. Đức Gioan XXIII đã cho
đăng lời kêu gọi hòa bình trên nhật báo xô-viết Pravda và đã tiếp kiến
riêng con gái của Tổng bí thư Khrouchtchev ở Vatican. Cuộc khủng hoảng
tên lửa đe dọa thế giới trên bờ chiến tranh nguyên tử lại khai thông cho
một giai đoạn hòa hoản giữa hai cường quốc. Năm vừa qua, Đức Phanxicô
đã phong thánh cho Đức Gioan XXIII. Trước khi Đức Gioan XXIII qua đời vì
bệnh ung thư, ngài đã ký Thông điệp Hòa bình Dưới thế (Pacem in
Terris), một thông điệp ngài ấp ủ trong lòng. Và bây giờ ở Châu Mỹ La
Tinh, nền ngoại giao của Rôma ở Colombia vẫn còn hoạt động mạnh trong
các cuộc thương thuyết hòa bình giữa chính quyền và các nhóm phiến quân
nổi loạn.
Đức Phanxicô tiếp kiến Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vào năm 2013
Một thế giới đang ở trong cơn khủng hoảng
Số phận của các tín hữu Kitô ở Trung
Đông trên chính trường quốc tế là một trong những vấn đề đau đớn nhất
của Vatican. Vào đầu thế kỷ 20, vùng này có từ 12 đến 15 % dân số là tín
hữu Kitô, bây giờ số tín hữu này chỉ còn 4 đến 5 %, các tín hữu ở Irak
và Syria đã phải đi trốn trong những điều kiện thảm thiết nhất.
Đức Phanxicô cố gắng làm cho các chính quyền Tây phương
quan tâm đến các cộng đoàn xưa cổ này ở Trung Đông và Cận Đông. Thực tế
là lời xin nâng đỡ này không được mọi người nghe theo. Tình trạng này
quả đã củng cố các quan hệ giữa Tòa Thánh và Giáo hội Chính thống ở
Moscova. Từ lâu quan hệ giữa hai Giáo hội rất khó khăn nhưng dưới thời
Đức Bênêđictô XVI đã có một bước ngoặc. Giáo hoàng người Đức kế vị giáo
hoàng người Ba Lan, ngài đã biết xích lại gần Thượng phụ Kiril. Khi vừa
được bầu chọn, Đức Phanxicô tự giới thiệu mình là giám mục địa phận Rôma
chứ không phải là lãnh đạo Giáo hội toàn vũ vì thế đây là món quà tượng
trưng cho anh em chính thống. Trong cơn khủng hoảng ở Ukrainia, cùng
với Thượng phụ Báctôlômêô của Constantinople, Đức Phanxicô chỉ đơn giản
xin hai bên “tìm một con đường để đối thoại và phải tôn trọng luật quốc
tế”.
Trong quá khứ, Giáo hội Công giáo luôn
dành ưu tiên cho các giáo phái miền Tây Ukrainia (giáo phái công giáo
theo nghi thức Hy Lạp), xem đó như mảnh đất của sứ vụ, và do đó đã làm
phức tạp các quan hệ của hai bên, bên Ukrainia và bên Nga xô. Ngày nay,
Rôma giữ một thái độ trung lập, không muốn làm tổn hại đến quan hệ vừa
mới được thiết lập với giáo trưởng Moscova, người ít mặn nồng với đại
kết.
Một nền chính trị thực tiễn của Dòng Tên
Rôma cũng quan tâm đến hàng triệu tín hữu
công giáo ở Á Châu. Sau chuyến đi Nam Hàn, nơi có 10% tín hữu (tăng 30%
trong vòng 10 năm) bây giờ đến lượt Trung quốc, nơi cộng đoàn Kitô có
từ 5 đến 14 triệu tín hữu mà chính sách ngoại giao của Vatican đang hoạt
động rất cẩn thận. Vatican và Bắc Kinh chưa có quan hệ chính thức nên
cần phải làm tròn các góc cạnh để hy vọng một ngày hai Giáo hội sẽ kết
hiệp lại với nhau, một giáo hội gọi là giáo hội “yêu nước” được nhà nước
kiểm soát, còn giáo hội kia là giáo hội “chui” hoàn toàn trung thành
với Rôma. Trong chuyến đi Rôma của Đức Đạt Lai Lạt Ma tháng 12 năm 2014,
Đức Phanxicô đã không gặp ngài, trước hết là để khỏi làm mất lòng Bắc
Kinh mà quan hệ đang còn khó khăn và rắc rối. Ở đây, Đức Phanxicô cho
thấy, đàng sau cách nói chuyện mạnh, ngài cũng hơi “cáo” như ngài đã tự
nói về mình như vậy. Dĩ nhiên Đức Phanxicô sẽ có ít nguy cơ khi cho “bài
học đạo đức” trên các chủ đề tương hợp với các nghị sĩ của Nghị viên Âu
Châu hơn là nói chuyện với Đảng cộng sản Trung quốc, một Đảng vẫn còn
tiếp tục loại trừ, canh chừng và thậm chí bỏ tù tín hữu công giáo Trung
quốc.
Trong các tháng sắp tới, Đức Thánh Cha sẽ
tiến hành việc phong thánh cho linh mục Matteo Ricci, một linh mục Dòng
Tên ở thế kỷ 16 được các vua nhà Minh kính trọng vì sự hiểu biết và vì
tình yêu của ngài đối với đất nước Trung quốc. Tuy nhiên đường lối chính
trị thực tiễn này không ngăn ngài gọi đúng tên đúng việc. Trong thánh
lễ ngày 12 tháng 4 vừa qua, Đức giáo hoàng đã nói đến vụ diệt chủng
người Armênia cách đây một thế kỷ, một vụ diệt chủng mà Thổ Nhĩ Kỳ không
chấp nhận nên đã làm cho họ giận. Tuy nhiên cũng đã có một tiền lệ: Năm
2000 Đức Gioan-Phaolô II đã nhắc đến việc dân tộc này bị tử đạo, nhưng
ngài chỉ viết.
Các nhà ngoại giao ở các vị trí chủ chốt
Trên tất cả các hồ sơ này, Đức Phanxicô
biết mình phải ở gần các nhà ngoại giao giỏi. Ngay từ khi vừa được bầu
chọn, ngài đã bổ nhiệm các nhà ngoại giao ở những địa vị chủ chốt của
Giáo triều La Mã, một trong những mạng ngoại giao có ảnh hưởng lớn nhất
thế giới. Ông Bernard Lecomte, chuyên gia Vatican học cho biết: “Vừa là
giám chức, vừa là đại sứ của giáo hoàng, mạng lưới này gồm các hồng y và
các giám mục, những người ở hàng đầu biết được tin tức tận nguồn gốc về
tình trạng thế giới”. Tân Quốc vụ khanh, tương đương với chức Thủ
tướng, hồng y Pietro Parolin là một giám chức người Ý. Nhà ngoại giao
lỗi lạc này từng là sứ thần Tòa Thánh ở Việt Nam, sau đó là ở Venezuela,
những xứ ngài đã biết cách cải thiện các quan hệ mà lúc đó rất tệ hại.
Ông Bernard Lecomte nhấn mạnh đến sự liên hợp mà “Đức Gioan-Phaolô II và
Quốc vụ khanh Agostino Casaroli của ngài đã thành tựu được”, trong thời
Chiến tranh lạnh, Quốc vụ khanh Casaroli còn được gọi là “phó giáo
hoàng”. Một nhà ngoại giao thân cận với Quốc vụ khanh Parolin là giám
mục người Anh Paul Richard Gallagher, 61 tuổi, tân “bộ trưởng Ngoại
giao” của Vatican. Cả hai người này biết nhau nhiều – Parolin sửa tiếng Ý
cho Gallagher khi họ còn là sinh viên ở ghế nhà trường ngoại giao của
Tòa Thánh. Giám mục Gallagher là người “Anglo-saxon” đầu tiên ở địa vị
này. Đức giáo hoàng đã xin Giám mục Gallagher sáng tạo và dấn thân trong
“văn hóa của đối thoại”.
Chính nhờ làm việc với các chuyên gia lớn
này mà Đức Phanxicô đã chuẩn bị được hai cuộc gặp gỡ rất quan trọng.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên có tính biểu tượng cao là cuộc gặp gỡ ở Sarajevo
ngày 6 tháng 6 sắp tới và buổi nói chuyện trước Nghị viện Mỹ vào tháng 9
năm nay. Đức giáo hoàng sẽ ngỏ lời ở một đất nước có một phần tư dân số
là người công giáo nhưng họ lại theo chủ nghĩa vật chất và đường lối
chính trị quốc tế của họ thường bị Vatican lên án như việc đưa quân vào
Irak năm 2003. Được ông John Boehner, lãnh đạo Đảng Cộng hòa ở Hạ Viện
và bà Nancy Pelosi, lãnh đạo Đảng Dân chủ ở Hạ Viện mời, cả hai đều là
người công giáo, Đức Phanxicô phải rất ngoại giao. Nhưng nếu ngài muốn
đánh thức họ thì ngài phải nói đến các vấn đề làm cho họ giận: tình
trạng người di dân latino-mỹ và việc hợp thức hóa hôn nhân đồng tính mà
Barack Obama mong muốn.
(Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch, phanxico.vn 13.05.2015/ lemondedesreligions.fr, Antoine Colonna, 11-05-2015)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét