Ngày cuối cùng tại New York và sáng đầu tiên tại Philadelphia
ĐTC tiến vào nhà thờ hai thánh Phêrô Phaolô tại Philadelphia để chủ sự thánh lễ cho hàng giáo sĩ tu sĩ - AP
Tường thuật ngày cuối ĐTC viếng thăm New York và sáng ngày đầu tiên tại Philadelphia
Sáng thứ bẩy 26 tháng 9 ĐTC bắt đầu
chặng thứ ba trong chuyến công du Hoa Kỳ đó là viếng thăm tổng giáo phận
Phialadelphia và tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình lần thứ 8.
Sau đây xin kính mời quý vị cùng
chúng tôi theo dõi các sinh hoạt cuối cùng của ĐTC tại New York và sáng
thứ bẩy tại Philadelphia.
Tại New York sau khi phát biểu trước
Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, lúc 11 giờ sáng thứ sáu 25 tháng 9 ĐTC đã
đến thăm đài tưởng niệm Ground Zero, là nền cũ của Tháp Song Sinh, đã bị
khủng bố, cháy và sập ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001 lúc 8
giờ 48 phút chiếc American Airline 11 đã đâm vào ngọn tháp phiá bắc. Rồi
vào lúc 9 giờ 3 phút chiếc máy bay United Airline 175 đâm vào tháp phía
nam. Vì sức nóng kinh khủng của xăng cháy, cấu trúc bằng thép của hai
tháp sụp đổ làm cho vài dinh thự khác của Trung Tâm Thương Mại cũng bị
sập theo, khiến cho 2.896 người bị thiệt mạng. Đây là số nạn nhân bị
thiệt mạng cao nhất trong lịch sử các tai họa chết người tại Hoa Kỳ.
Năm 2002 đã có cuộc thi tái thiết Tháp Song Sinh và kiến trúc sư Daniel
Libensky đã thắng với dự án “Trung tâm thương mại mới”.
Công viên tưởng niệm rộng 33.000 mét
vuông, gồm một đám rừng nhỏ có trồng 400 cây sồi trắng và hai thác nước
nhân tạo lớn nhất Hoa Kỳ cung cấp nước cho hai hồ mỗi hồ rộng 4.000 mét
vuông. Hai hồ này là dấu vết nền cũ của Tháp Song Sinh, có song chắn
bằng đồng chung quanh, bên trên khắc tên của tất cả các nạn nhân của hai
vụ khủng bố ngày 26 tháng 2 năm 1993, và vụ khủng bố Tháp Song Sinh
ngày 11 tháng 9 năm 2001. Bên trong lòng của khu tưởng niệm có một viện
bảo tàng trưng bầy hình ảnh và vết tích của các biến cố thê thảm ấy.
Tại đây lúc 11 giờ rưỡi sáng 25
tháng 9 đã diễn ra buổi cầu nguyện đại kết, với sự tham dự của các đại
diện Ấn giáo, Phật giáo, đạo Sihk, Jain, Thổ dân, Do thái, Hồi giáo, và
các Giáo Hội Kitô khác tại New York.
Xe chở ĐTC đã dừng gần phông ten nước
phía nam, nơi ĐTC đã cùng với ĐHY Dolan đặt một vòng hoa tưởng niệm các
nạn nhân và chào 20 thân nhân của các nhân viên cấp cứu bị thiệt mạng.
Sau đó hai vị đi vào bên trong Đài Tưởng Niệm, lấy thang máy lên lầu 4
có phòng khánh tiết. ĐTC bước lên bục nơi đã có 12 vị lãnh đạo các Giáo
Hội Kitô và các tôn giáo khác chờ sẵn. Có vài trăm người tham dự buổi
tưởng niệm đại kết này. ĐHY Dolan đã chào mừng và cám ơn sự hiện diện
của mọi người. Ngài nói “người dân New York chúng con là những kẻ tội
lỗi có nhiều thói xấu và phạm nhiều lỗi lầm, nhưng có một điều đã biết
làm tốt: đó là xây dựng tình bạn chân thành và phong phú giữa các tôn
giáo. Các vị lãnh đạo tôn giáo cùng nhau gặp gỡ, làm việc, cầu nguyện và
phục vụ các tín hữu và thành phố.”
Tiếp đến là lời cầu nguyện của Rabbi
Elliot Cosgrove, trưởng hội đường Do thái, và Imam Khalid Latif, tuyên
úy Hồi giáo đại học New York. Rabbi Elliot nói: Tại nơi bạo lực đã bị vi
phạm một cách sai lạc nhân danh Thiên Chúa các đại diện tôn giáo thế
giới tụ họp để cống hiến các lời an ủi và cầu nguyện, để nhớ tới các nạn
nhân vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 với tình yêu thương trìu mến và cầu
nguyện cho linh hồn họ. Imam Latif nói: Những người tấn công nơi này
lòng tràn đầy bất khoan nhượng và không biểu biết. Lòng can đảm của buổi
tụ họp nhau hôm nay khiên cho chúng ta khác với những người chống lại
tự do tôn giáo vì chúng ta cùng nhau đứng đây như anh em để lên án các
hành động kinh khủng cùa bạo lực và vinh danh từng sự sống đã mất đi một
cách vô điều kiện như vậy. Như chúng ta đọc trong sách Coran: “Mỗi sự
sống mất đi giống như toàn nhân loại mất đi” và “mỗi sự sống được cứu
giống như toàn nhân loại được cứu”. Đối với Thiên Chúa mọi sự sống đều
thánh thiêng và quý báu. Nơi đâu những người khác thất bại, thì chúng ta
hãy là những người nhắc nhớ ý niệm sự tạo dựng này của Ngài.
Rồi ĐTC đọc lời nguyện: xin Thiên
Chúa của tình yêu, lòng thương cảm và hoà giải, trong sự nhân lành của
Ngài, ban ánh sáng và hòa bình vĩnh cửu cho tất cả những người đã chết
tại nơi đây... tất cả mọi người nam nữ vô tội, nạn nhân của thảm cảnh
này, chỉ vì công việc và bổn phận của họ đã đưa họ tới đây ngày 11 tháng
9 năm 2001. ĐTC cũng xin Chúa chữa lành những người đau khổ vì các
thương tích và bệnh tật, cũng như nỗi khổ đau của các gia đình còn đang
thương khóc vì đã mất người thân.. Xin Chúa ban cho họ sức mạnh tiếp tục
sống với lòng can đảm và hy vọng. Tiếp tục lời cầu nguyện ĐTC cũng nhớ
đến những người đã chết hay bị thương, và những người đã mất người thân
trong cùng ngày tại Ngũ Giác Đài và tại Shanksville bên Pennsylvania.
Ngài nói tiếp trong lời nguyện: “Lậy Thiên Chúa của hòa bình, xin đem
Hoà Bình của Chúa đến trong thế giới bạo lực của chúng con; hòa bình
trong các con tim của mọi người nam nữ, hòa bình giữa các quốc gia của
trái đất. Xin Chúa dẫn những người có tâm trí bị thù hận soi mòn về Con
đường tình yêu của Chúa. Lậy Thiên Chúa của sự hiểu biết, bị đè nén bởi
chiều kích lớn lao của thảm cảnh này, chúng con tìm ánh sáng và sự
hướng dẫn của Chúa, trong khi chúng con đang đứng trước các biến cố kinh
khủng như thế. Xin ban cho những người còn sống có thể sống làm sao để
các mạng sống đã bị mất không mất đi một cách vô ích. Xin Chúa củng cố
và an ủi chúng con, xin Chúa củng cố chúng con trong hy vọng, và ban cho
chúng con sự khôn ngoan và lòng can đảm làm việc không biết mỏi mệt cho
một thế giới, trong đó hoà bình và tinh yêu chân chính ngự trị giữa các
quốc gia và trong con tim của mọi người”.
Lễ tưởng niệm tiếp tục với các lời
suy niệm và cầu nguyện cho Hoà Bình của các đại diện Ấn giáo, Phật giáo,
đạo Sikh, Kitô và Hồi giáo và các tôn giáo khác, rồi có lời cầu bằng
tiếng Do thái cho các nạn nhân.
Nước mắt khóc thương mọi nạn nhân của bạo lực, tàn phá bất công trên toàn thế giới
Ngỏ lời trong dịp này bằng tiếng Tây
Ban Nha, sau khi bầy tỏ các tâm tình và xúc động khi đứng tại nơi hàng
ngàn người đã bị cướp mất mạng sống trong một khoảnh khắc của tàn phá vô
nghĩa, và khi nhìn dòng nước chảy tại đài tưởng niệm, ĐTC nói:
Nước mà chúng ta thấy chảy về trung
tâm trống rỗng, nhắc cho chúng ta nhớ tới tất cả các mạng sống đã ở dưới
quyền lực của những người tin rằng sự tàn phá là phương thế duy nhất để
giải quyết các xung khắc. Đó là tiếng kêu thầm lặng của những người đã
khổ đau trong thịt xác mình vì cái luận lý của bạo lực, thù hận và báo
oán. Một thứ luận lý chỉ có thể sản xuất ra khổ đau, tàn phá và nước
mắt. Nước chảy xuống cũng biểu tượng cho nước mắt chúng ta. Nước mắt vì
các tàn phá của ngày hôm qua kết hiệp với biết bao tàn phá của ngày hôm
nay. Đây là nơi, trong đó chúng ta khóc, chúng ta khóc nỗi đớn đau vì
cảm thấy bất lực trước bất công, trước cảnh anh em giết nhau, trước việc
không có khả năng giải quyết các khác biệt bằng đối thoại. Tại nơi này
chúng ta khóc vì những người vô tội bị mất mạng cách bất công và nhưng
không, vì không thể tìm ra các giải pháp cho công ích. Đó là nước nhắc
cho chúng ta nhớ tiếng khóc của hôm qua và của hôm nay.
ĐTC nói tiếp trong bài phát biểu : Ở
đây giữa khổ đau xé lòng, chúng ta có thể sờ mó được với bàn tay khả
năng của lòng tốt anh hùng, mà con người có thể có ; nó là sức mạnh dấu
ẩn mà chúng ta luôn phải kêu gọi. Trong lúc khổ đau nhất anh chị em đã
là chứng nhân của những cử chỉ tận hiến và trợ giúp vĩ đại nhất. Các bàn
tay giơ ra, các mạng sống hiến dâng. Trong một thành phố lớn xem ra
không cá tánh, vô danh, cô đơn, anh chị em đã có khả năng cho thấy tình
liên đới mạnh mẽ của sự tương trợ lẫn nhau, của tình yêu và của hy sinh
cá nhân. Trong lúc này đã không có vấn đề dòng máu, nguồn gốc, khu phố,
tôn giáo hay lựa chọn chính trị ; nhưng đã là vấn đề của tình liên đới,
của sự cấp thiết, của tình huynh đệ. Nó đã là vấn đề nhân đạo. Các nhân
viên cứu hỏa New York đã vào hai tháp đang sập, mà không chú ý tới mạng
sống của họ. Nhiều người đã ngã gục trong khi phục vụ, và với hy sinh
của họ họ đã cứu mạng sống của biết bao nhiêu người khác.
Nơi chết chóc này cũng biến thành một
nơi của sự sống, của các mạng sống được cứu vớt, một bài ca đem chúng
ta tới chỗ khẳng định rằng sự sống luôn luôn được chỉ định chiến thắng
các ngôn sứ của huỷ diệt, của cái chết, rằng sự thiện sẽ luôn luôn thắng
sự dữ, rằng sự hòa giải và hiệp nhất sẽ chiến thắng thù hận và chia rẽ.
Tại nơi của khổ đau và tưởng nhớ
này, cơ may kết hiệp với các vị lãnh đạo đại diện cho nhiều tôn giáo làm
giầu cho thành phố này, khiến cho tôi tràn đầy hy vọng. Tôi hy vọng
rằng sự hiện diện của chúng ta tại đây là một đấu chỉ mạnh mẽ ý chí của
chúng ta chia sẻ và tái khẳng định ước muốn là các sức mạnh của sự hoà
giải, các sức mạnh của hòa bình và công lý trong cộng đoàn này và tại
khắp nơi trên thế giới. Trong các khác biệt, trong các bất đồng có thể
sống trong một thế giới hòa bình. Trước mỗi mưu toan đồng nhất hóa chúng
ta có thể và cần hiệp nhất với nhau giữa các tiếng nói, các nền văn
hóa, tôn giáo khác nhau và trao ban tiếng nói cho tất cả những gì muốn
ngăn cản nó. Hôm nay chúng ta cùng nhau được mời gọi nói « không » với
mọi mưu toan đồng nhất hóa, và nói « có » với một sự khác biệt được chấp
nhận và hòa giải.
Vì mục đích này chúng ta cần loại trừ
các tâm tình thù ghét, báo thù, oán hận. Và chúng ta biết rằng điều này
chỉ có thể như một ơn của trời. Ở đây, tại nơi tưởng niệm này, mỗi
người trong cách thức riêng của mình, nhưng cùng nhau. Tôi xin đề nghị
với quý vị giữ một lúc thinh lặng và cầu nguyện. Chúng ta xin trời ơn
dấn thân cho lý tưởng của hòa bình. Hoà bình trong các nhà, hòa bình
trong các gia đình, trong các trường học, trong các cộng đoàn của chúng
ta. Hoà bình tại các nơi chiến tranh xem ra không chấm dứt. Hoà bình
trên các gương mặt đã không biết tới gì khác ngoài khổ đau. Hoà bình
trong thế giới rộng rãi này mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như là
nhà của tất cả mọi người và cho tất cả mọi người. Chỉ có hòa bình thôi.
ĐTC và mọi người đã thinh lặng cầu nguyện.
Rồi ngài kết luận : Như thế cuộc sống
của các người thân yêu của chúng ta sẽ không phải là một cuộc sống kết
thúc trong quên lãng, nhưng sẽ hiện diện mỗi lần chúng ta chiến đấu để
là ngôn sứ của sự tái thiết, ngôn sứ của sự hòa giải, ngôn sứ của hòa
bình.
Tiếp đến các thành viên ca đoàn thiếu
nhi và bạn trẻ thuộc nhiều nước khác nhau đã lên đứng vây quanh khán
đài, nắm tay nhau hát thánh ca hoà bình. Mọi người được mời gọi trao ban
bình an cho nhau. Các đại diện tôn giáo được tặng mỗi người một huy
hiệu chuyến viếng thăm của ĐTC.
Sau khi chào tữ giã ĐTC đã vào thăm viện bảo tàng, nơi trưng bầy các hình ảnh và nhiều chứng tích của cuộc khủng bố.
Lúc 12 giờ 30 ĐTC đã trở về khu vực
dành cho Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh Liên Hiệp Quốc
cách đó 2 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát, trưóc khi tiếp
tục các sinh hoạt khác vào ban chiều.
Lúc 6 giờ chiều giờ New York, ĐTC đã
đến thăm trường « Đức Bà Nữ Vương các thánh Thiên Thẩn” cách đó 4 cây số
rưỡi, gặp gỡ các trẻ em và gia đình các người di cư. Trường học này tọa
lạc trong khu phố Brooklyn. Tên gọi Brooklyn đến từ tiếng Hoà Lan
« Breuckelen » là tên ngôi làng người di dân gốc Hoà Lan đã thành lập
năm 1624. Với 2,5 triệu người Brooklyn là khu phố đông dân cư nhất trong
4 khu phố tại New York. Năm 1898 nó được gắn liền với New York nhưng
vẫn tiếp tục duy trì căn tính riêng. Là nơi cập bến của người di cư, nó
gồm các cộng đoàn thuần nhất theo chủng tộc và tôn giáo. Tại Brooklym có
cây cầu nổi tiếng nối liền Brooklyn với Manhattan xây năm 1883, và Viện
bảo tàng xây năm 1897, là một trong các viện bảo tàng lớn nhất Hoa Kỳ
với hơn 1,5 triệu tác phẩm nghệ thuật thuộc các nưóc từ Ai cập cho tới
các tác phẩm ngày nay.
Giáo phận Brooklyn được thành lập năm
1853 có hơn 1,4 triệu tín hữu công giáo trên gần 4,9 triệu dân, gồm
187 giáo xứ, 437 linh mục giáo phận, 167 linh mục dòng, 284 tu huynh,
769 nữ tu, 225 phó tế vĩnh viễn, 57 đại chủng sinh. Giáo phận diều khiển
203 cơ cấu giáo dục và 277 trung tâm bác ái.
Trường Đức Bà Nữ Vương các thánh
Thiên Thần là một trưởng tiểu học có 282 học sinh tuổi từ 5 tới 14,
trong đó 69% có học bổng. Các trẻ em là con các gia đình di cư có lợi
tức thấp 69% đến từ châu Mỹ Latinh, các gia đình khác đến từ Phi châu và
Trung Đông, 22% là người Mỹ gốc Phi châu. Trường này là một trong số 6
trường do tổng giáo phận New York điều hành với tổng cộng 2.100 học
sinh, trong đó có ¼ không nói tiếng Anh.
Trưởng học là đại gia đình cho tất cả mọi người
ĐTC đã được bà giám đốc trường tiếp
đón tại cửa hông của trường. Bà đã tháp tùng ĐTC vào trong phòng thể
thao thể dục nơi diễn ra cuộc gặp gỡ.
Ngỏ lời với các em, ĐTC bầy tỏ sự hài
lòng được ở với các em như trong một gia đình. Ngài đặc biệt xin lỗi
các giáo chức vì đã lấy ít phút giờ học. Các em thuộc các gia đình đến
từ các nước khác. Cả khi không dễ mà tìm được nhà mới, các bạn bè và
láng giềng mới và cuộc sống bắt đầu với nhiều vất vả : học tiếng mới,
thích hợp với một nền văn hóa mới, khí hậu mới. Phải học biết bao nhiêu
điều chứ không phải chỉ có bài tập của trường học. Nhưng có điều đẹp đó
là các em cũng gặp các bạn mới, các người mở rộng cửa tiếp đón và cho
thấy sự dịu hiền, tình bạn, sự cảm thông, và họ tìm giúp đỡ chúng ta để
chúng ta không cảm thấy xa lạ. Trong cách thế đó trường học trở thành
một đại gia đình cho tất cả mọi người, nơi chúng ta học giúp đỡ nhau
cùng với cha me, ông bà, các nhà giáo dục, thầy dậy và bạn bè, học chia
sẻ những gì là tốt lành nơi từng người, cho đi cái tốt nhất của mình,
làm việc theo nhóm và kiên trì trong các mục đích. ĐTC nhắc đến một nhân
vật có ảnh hưởng lớn trên xã hội Hoa Kỳ như sau :
Bên cạnh đây có một con đường rất
quan trọng với tên của một người đã làm biết bao điều tốt lành cho tha
nhân, mà cha muốn cùng tưởng niệm với các con. Cha muốn nói đến Mục sư
Martin Luther King. Một ngày kia ngài đã nói : « Tôi có một giấc mơ »
Ngài đã mơ rằng biết bao nhiêu trẻ em, biết bao nhiêu người có được sự
bình đẳng và cơ may. Ngài đã mơ rằng biết bao trẻ em như các con được
giáo dục. Thật là đẹp có các giấc mơ và chiến đấu cho các giấc mơ đó.
Hôm nay chúng ta muốn tiếp tục mơ và
chúng ta mừng tất cả các cơ may cho phép các con cũng như người lớn
không đánh mất đi niềm hy vong vào một thế giới tốt đẹp hơn với nhiều
khả thể hơn. Cha biết rằng một trong các giấc mơ của cha mẹ các con là
các con có thể lớn lên trong tươi vui. Thật luôn luôn là điều đẹp, trông
thấy một trẻ em cười. Ở đây người ta thấy là các con tươi cười : hãy
tiếp tục như thế, và hãy giúp làm cho niềm vui lây lan tới mọi người
sống chúng quanh các con.
Các trẻ em thân mến, các con có quyền
mơ, và cha rất vui mừng vì các con có thể tìm thấy trong ngôi trường
này, nơi các bạn bè và các thầy dậy của các con sự nâng đỡ cần thiết để
làm điều ấy. Nơi đâu có các giấc mơ, nơi đó có niềm vui, nơi đó luôn có
Chúa Giêsu. Bởi vì Chúa Giêsu là niềm vui, và muốn giúp chúng ta để cho
niềm vui ấy kéo dài mọi ngày.
Trước khi từ biệt các con cha muốn
cho các con một bài tập về làm ở nhà, có được không ? Đó là một lời xin
đơn sơ nhưng rất quan trọng : các con đừng quên cầu nguyện cho cha, để
cha có thể chia sẻ với biết bao nhiêu người khác niềm vui của Chúa
Giêsu. Và chúng ta cũng cầu nguyện để nhiều người có thể nếm hưởng niềm
vui mà các con có.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho các con và xin Đức Trinh Nữ che chở các con.
ĐTC dã tặng cho trường Đức Bà Nữ
Vương các thánh Thiên Thần Harlem một bức tượng bằng gỗ Đức Mẹ bồng Chúa
Hài Nhi, do các điêu khắc gia vùng Trentino đông bắc Italia tạc. Sau đó
ngài đi ra phiá trước trưòng để chào giới phụ huynh và dân chúng trong
khu phố.
Lúc 17 giở 15 phút chiều 25 tháng 9
ĐTC dã đi xe đến Madison Square Garden cách đó 9 cây số để chủ sự thánh
lễ cho tín hữu tổng giáo phận New York. Madison Square Garden là sân vận
động xây năm 1968 và tái thiết năm 1991, có 20.000 chỗ ngồi, nơi diễn
ra các cuộc tranh tài thể thao thể dục, hoà nhạc, các hội nghị và các
đại hội của hai đảng Cộng Hoà và Dân Chủ Mỹ.
Thiên Chúa đông hành với con người trong mọi môi trường sống và muốn soi sáng khắp nơi
Thánh lễ cầu nguyện cho hoà bình và
công lý đã được cử hành bằng ba thứ tiếng Latinh, Anh và Tây Ban Nha.
Các lời nguyện giáo dân được đọc bằng các thứ tiếng Gaelico, Ba Lan,
Đức, Tigrino và Ý.
Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng
diễn ý nghĩa các bài đọc trích từ chương 9 sách ngôn sứ Isaia nói rằng:
« Dân tộc bước đi trong tối tăm đã nhìn thấy một ánh sáng lớn » (Is 9,1)
Chúng ta đang ở trong sân vận động
Madison Square Garden, là nơi biểu tượng của thành phố này, là trụ sở
của các cuộc gặp gỡ thể thao, nghệ thuật, âm nhạc, tụ họp người của
nhiều nơi, không phải chỉ là của thành phố mà của toàn thế giới. Dân
bước đi giữa các sinh hoạt, các lo lắng thường nhật của mình, dân bước
đi mang nặng các thành công và các lầm lỗi, các sợ hãi và các cơ may,
các niềm vui và niềm hy vọng, cũng như các thất vọng và cay đắng của
mình đã trông thấy một ánh sáng lớn.
Trong mọi thời đại dân Thiên Chúa
đưọc mời gọi chiêm ngưỡng ánh sáng đó, ánh sáng muốn chiếu soi mọi quốc
gia, muốn đến trong mọi góc của thành phố này, với mọi công dân, mọi
không gian của cuộc sống. Một trong các đặc thái của Dân có niềm tin là
khả năng trông thấy, chiêm ngưỡng giữa các tối tăm của mình, ánh sáng mà
Chúa Kitô đem đến. Dân có niềm tin biết nhìn, phân định và chiêm ngắm
sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa cuộc đời mình, giữa thành phố
của mình. Sống trong một thành phố lớn có nhiều phức tạp, với một môi
trường đa văn hóa và các thách đố lớn không đễ giải quyết. Các thành phố
lớn nhắc cho chúng ta biết sự phong phú ẩn dấu trong thế giới chúng ta
là các nền văn hóa, các truyền thống và lịch sử khác nhau, các tiếng
nói, cách ăn mặc khác nhau. Các thành phố lớn diễn tả sự da diện của các
cung cách sống và hành xử của chúng ta. Nhưng các thành phố lớn cũng
che dấu gương mặt của biết bao nhiêu người bị coi như công dân hạng hai.
Giữa các tiếng di chuyển ồn ào, trong tiết nhịp các thay đổi cũng bị
che dấu các tiếng nói của biết bao nhiêu gương mặt không có quyền công
dân, không có quyền là thành phần của thành phố - các người nước ngoài,
con cái họ không được học hành, các người không đuợc săn sóc sức khỏe,
các người vô gia cư, các người già cô đơn, bị ở bên lề các đường đi của
chúng ta, trong một sự vô danh ầm ĩ. Họ bưóc vào trong một cảnh tượng
thành thị từ từ trở thành tự nhiên trước mắt và đặc biệt là trong tim
chúng ta. Tuy nhiên, trong mọi trạng huống đó vẫn có Chúa đồng hành với
chúng ta. ĐTC nói :
Biết rằng Chúa Giêsu tiếp tục bước đi
trên các con đường của anh chị em, trà trộn với dân Ngài môt cách sống
động, để cho mình bị liện lụy và lôi cuốn con người vào trong một lịch
sử cứu độ duy nhất khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng, một niềm hy vọng
giải thoát chúng ta khỏi sức mạnh thúc dẩy chúng ta cô lập hóa mình và
không biết đến cuộc sống của người khác, cuộc sống của thành phố. Một
niềm hy vọng giải thoát chúng ta khỏi các liên lạc trống rỗng, các phân
tích trừu tượng, hay nhu cầu có các cảm xúc mạnh. Một niềm hy vọng không
sợ hãi tháp nhập vào và hành động như men trong những nơi bạn phải
chung đụng và sống. Một niềm hy vọng mời gọi chúng ta nhìn giữa « khói
mù ô nhiễm » sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng tiếp tục bước đi trong
các thành phố của chúng ta.
Ngôn sứ Isaia giới thiệu Chúa Giêsu
với chúng ta như « Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa quyền năng, Cha muôn thuở,
Hoàng tử của hoà bình » (Is 9,5). Với những nguời hỏi cho biết họ phải
làm gì, câu trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu là đề nghị, khích lệ và động
viên. Ngài luôn luôn đề nghị các môn đệ ra đi, và thúc đầy họ ra đi gặp
gỡ những người khác tại những nơi họ sống, ra đi không sợ hãi, không
nhờm gớm, ra đi loan báo niềm vui cho mọi dân tộc. Và nơi Chúa Giêsu,
Thiên Chúa trở thành Emmamuel luôn đi bên cạnh chúng ta, trà trộn với
chúng ta trong nhà của chúng ta. Không ai và không có gì có thể tách rời
chúng ta khỏi Ngài. Ra đi loan báo Thiên Chúa là Cha luôn chờ đón chúng
ta để ôm chúng ta vào lòng. Đi tới với những người khác để chia sẻ tin
vui Thiên Chuá là Cha, đồng hành với chúng ta và giải thoát chúng ta
khỏi cảnh vô danh, khỏi chiến tranh thi đua, tự quy hướng về mình, để mở
ra con đường hoà bình cho chúng ta. Thiên Chúa sống trong các thành
phố của chúng ta, Giáo Hội sống trong các thành phố của chúng ta và muốn
là men trong đám đông trà trộn với tất cả mọi nguời đồng hành với tất
cả mọi người để loan báo các điều kỳ diệu của Đấng là « Cố vấn kỳ diệu,
Thiên Chúa quyền năng, Cha muôn thuở và Hoàng Tử hòa bình.
Sau thánh lễ ĐTC đã trở về trụ sở Quan sát viên thường trực của Toà Thánh để dùng bữa tối và nghỉ đêm.
Sáng thứ bẩy 26 tháng 9 lúc 7 giờ
rưỡi ĐTC đã đi xe ra tới sân trực thăng cách đó 12 cây số để tới phi
trường Kennedy lấy máy bay đi Philadelphia. Máy bay đã tới phi trường
quốc tế Philadelphia sau 50 phút bay.
Philadephia là thành phố đông dân
hàng thứ 5 của Hoa Kỳ và là thành phố quan trọng nhất của tiểu bang
Pensylvania. Các người thuộc địa âu châu đã tới đây năm 1646. Vài chục
năm sau vùng này nằm dưới quyền kiểm soát của Anh quốc. Năm 1682 ông
William Pen thành lập thành phố Philadelphia có nghĩa là « tinh yêu
huynh đệ ». Vào hậu bán thể kỷ 18 thành phố trở thành một trong những
trung tâm quan trọng nhất của cuộc Cách Mạng Mỹ và là nơi Hoa Kỳ tuyên
bố độc lập ngày mùng 4 tháng 7 năm 1776, rồi Hiến pháp quốc gia năm
1787. Thành phố hiện có hơn 1,5 triệu dân 45% da trắng, 43% mỹ gốc phi
châu, 8% nguời nói tiếng Tây Ban Nha, 4% gốc Á châu.
Tổng giáo phận đưọc thành lập năm
1808 có 1,5 triệu tín hữu trên tổng số hơn 4 triệu dân cư. Giáo phận có
235 giáo xứ, 18 cứ điểm truyền giáo, 564 linh mục giáo phận, 344 linh
mục dòng, 447 tu huynh, 2.543 nũ tu, 281 phó tễ vĩnh viễn 49 đại chủng
sinh. Giáo phận điều khiển 329 cơ sỏ giáo dục và 58 trung tâm bác ái.
Ra đón ĐTC tại phi trường có ĐTGM
Charles Joseph Chaput và một số giới chức đạo đời khác. Từ phi trường
ĐTC đã đi xe tới nhà thờ chính tòa cách đó 16 cây số để chủ sự thánh lễ
với các Giám Mục và linh mục với sự tham dự của các tu sĩ nam nữ
Phialadelphia và toàn bang Pensylvania. Nhà thờ chính toà kính hai thánh
Phêrô Phaolô được xây năm 1846, theo mẫu nhà thờ thánh Carlo ở Roma, có
1500 chỗ ngồi
Giáo Hội cần sự cộng tác tích cực hơn nữa của các nữ giáo dân và nữ tu
Giảng trong thánh lễ ĐTC nhấn mạnh
rằng lịch sử của Giáo Hội trong thành phố Philadelphia này là một lịch
sử nói với chúng ta về các thế hệ công giáo dấn thân đi ra các vùng
ngoại biên và xây dựng các cộng đoàn cho việc phụng tự, giáo dục, bác
ái, và phục vụ xã hội nói chung.
Người ta có thể trông thấy lịch sử ấy
tại nhiều đền thánh trong thành phố và nhiều nhà thờ giáo xứ, mà các
tháp chuông nói về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa các cộng đoàn. Người
ta trông thấy nơi cố gắng của các linh ục, tu sĩ và giáo dân tận tụy
trong hai thế kỷ lo lắng cho các nhu cầu tinh thần của dân nghèo, người
di cư, người bệnh và các tù nhân. Người ta trông thấy nơi hàng trăm
trường học, trong đó các tu huynh và nữ tu đã dậy các trẻ em biết đọc
biết viết, yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, góp phần xây dựng cuộc sống
xã hội Hoa Kỳ, như những công dân tốt. Tât cả điều này là một gia tài
lớn lao mà anh chị em đã nhận được và được mời gọi làm giầu và thông
truyền.
Tiếp đến ĐTC kể lại ơn gọi của chị
Caterina Drexel một trong các vị thánh lớn của Giáo Hội Hoa Kỳ. Khi chị
nói chuyện với ĐGH Leô XIII ngài hỏi chị: “Thế còn con. Con sẽ làm gì?”
Câu hỏi đó đã thay đổi cuộc đời của chị, vì chúng nhắc cho chị nhớ rằng
mỗi kitô hữu, do Bí tích Rửa Tội, đã nhận một sứ mệnh. Mỗi người trong
chúng ta phải trả lời làm thế nào để đáp trả lại tiếng gọi của Chúa cách
tốt nhất hầu xây dựng Thân Mình Ngài là Giáo Hội.
Câu hỏi đã được nói với một nữ giáo
dân trẻ có nhiều lý tuởng và đã thay đổi cuộc đời chị. Nó đã làm cho chị
nghĩ tới công việc mênh mông phải làm, và đưa chị tới ý thức phải làm
cái gì đó trong nghĩa này. Có biết bao nhiêu người trẻ trong các giáo xứ
và trường học của chúng ta có cùng các lý tưởng cao quý, tinh thần
quảng đại, tình yêu đối với Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúng ta có thử họ,
có cho họ không gian và giúp họ thực hiện nhiệm vụ của họ không? Chúng
ta có tìm cách chia sẻ sự hăng say và các ơn của họ với cộng đoàn, nhất
là thực thi các việc bác ái thương xót và chú ý tới người khác không?
Chúng ta có chia sẻ niềm vui và sư hăng say của chúng ta trong việc phục
vụ Chúa không?
Một trong các thách đố lớn nhất đối
với Giáo Hội trong lúc này là làm lớn lên trong tất cả các tín hữu, ý
thức trách nhiệm đối với sứ mệnh của Giáo Hội, và khiến cho họ có khả
năng chu toàn trách nhiệm đó như là các môn đệ thừa sai, như men Tin
Mừng trong thế giới. Điều này đòi hỏi khả năng sáng tạo và thích ứng với
các tình trạng thay đổi để thông truyền niềm vui Tin Mừng mọi ngày,
suốt đời.
Tương lai của Giáo Hội trong một xã hội thay đổi nhanh chóng đòi buộc
sự chia sẻ của các giáo dân tích một cách cực hơn. Giáo Hội Hoa Kỳ đã
luôn luôn dấn thân trong việc đạy giáo lý và giáo dục. Thách đố ngày nay
là xây dựng trên các nền tảng vững chắc, và làm cho ý thức cộng tác và
chia sẻ trách nhiệm lớn lên trong việc đưa ra chương trình cho tương
lai, biết phân định và khôn ngoan đánh giá các ơn đa diện mà Chúa Thánh
Thần đổ xuống trên Giáo Hội, để khích lệ sự góp phần mênh mông mà các
nữ giáo dân và các nữ tu đã và đang cống hiến cho cuộc sống của các cộng
đoàn.
ĐTC dã khích lệ các linh mục và nam
nữ tu sĩ can đảm canh tân niềm vui của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa
Kitô, và rút tiả ra từ đó lòng trung thành và sức mạnh đổi mới. Ngài xin
các vị suy tư về việc phục vụ các gia đình, các cặp chuẩn bị hôn nhân
và giới trẻ. ĐTC xin các vị sốt sắng cầu nguyện cho các gia đình cũng
như cho các quyết định của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình.
Với lòng biết ơn về tất cả những gì
chúng ta đã nhận được, và với lòng tin tưởng chắc chắn giữa các nhu cầu
của chúng ta, chúng ta hãy hướng tới Đức Maria Mẹ Rất Thánh. Với tình
yêu là mẹ, xin Mẹ bầu cử cho Giáo Hội tại Mỹ để nó tiếp tục lớn lên
trong chứng tá ngôn sứ về quyền năng của Thập Giá của Con Mẹ, hầu đem
lại niềm vui, hy vọng và sức mạnh cho thế giới. Tôi cầu nguyện cho anh
chị em, xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi.
Linh Tién Khải