VATICAN VÀ GIÁO HOÀNG
Thể chế giáo hoàng là một trong những cách tổ chức lâu đời nhất trên thế giới và đã đóng một phần nổi bật trong lịch sử nhân loại[1]. Các giáo hoàng đã giúp Kitô giáo được truyền đi khắp nơi và giải quyết các tranh chấp về giáo lý khác nhau. [2] Thời Trung Cổ, họ có vị trí quan trọng chính trường Tây Âu vì thường đóng vai trò là trọng tài phán quyết giữa các quốc gia Kitô giáo. [3][4][5] Ngày nay, giáo hoàng đã không còn nhiều quyền lực đối với các nhà nước thế tục, ông chỉ có thẩm quyền chính thức trong các vấn đề tôn giáo, ngoại trừ việc ông là người lãnh đạo thành quốc Vatican - quốc gia có chủ quyền trên một lãnh thổ nhỏ nhất thế giới, nằm trọn trong thủ đô Roma, nước Ý.
Từ nguyên
Chữ “pope” trong tiếng Anh xuất phát từ chữ “papa” trong tiếng Latinh. Tuy nhiên, đây là từ ngữ gốc Hy Lạp Cổ, dùng để chỉ người cha trong gia đình. Ban đầu, người Công giáo Đông phương nói tiếng Hy Lạp hoặc Tây phương nói tiếng Latinh đều dùng chữ “papa” để gọi các vị giám mục, linh mục trong Giáo hội, thể hiện sự tôn trọng, kính cẩn.Ngày nay, Giáo hội Chính Thống Hy Lạp, Chính Thống Nga và Serbia vẫn dùng cách gọi như thế, tuy nhiên, Giáo hội Công giáo Rôma chỉ sử dụng từ ngữ này dành cho vị giám mục Rôma. Lịch sử Giáo hội Công giáo ghi nhận, Giáo hoàng Grêgôriô VII (1073-1085) là người đã chính thức giới hạn việc dùng từ “papa”.
Từ “Giáo hoàng” trong tiếng Việt thực ra không dịch sát từ gốc Latinh, nó được dịch cách cảm quan từ người Công giáo đối với vị lãnh đạo tinh thần đáng kính. “Giáo” nghĩa là Giáo hội, “hoàng” nghĩa là ông vua, người lãnh đạo giáo hội. Thông thường, các giáo dân Công giáo Việt Nam hay sử dụng danh xưng Đức Thánh Cha và Đức Giáo Hoàng để tôn kính Giáo hoàng.
Trước thế kỷ 20 tự điển tiếng Việt còn dùng "Đức Giáo tông"' và "Đại phụ Thánh hội tông" để chỉ ngôi vị Giáo hoàng.[6]
Lịch sử
Sắp xếp theo nhóm thời đại
Giáo hội Công giáo chia danh sách các giáo hoàng theo thời đại chứ không theo niên đại hay thế kỷ, ứng với những sự kiện quan trọng trong lịch sử giáo hội.- Thời đại Thánh Kinh (từ năm 30 đến 100 CN): gồm năm vị giáo hoàng (thời gian trị vì trong ngoặc):
- Thánh Phêrô (32-67).
- Giáo hoàng Linô (67-76).
- Giáo hoàng Anaclêtô (76-88).
- Giáo hoàng Clêmentê I (88-97).
- Giáo hoàng Êvaristô (97-105).
- Thời đại các Giáo phụ (từ năm 100 đến năm 600): Giáo phụ là những tổ phụ rất thông thái và thánh thiện, đã trình bày những giảng dạy của Kitô Giáo và diễn giải Thánh Kinh cho toàn thể giáo hội. Thời đại này gồm 59 giáo hoàng, từ vị thứ 6 đến vị thứ 64 (tức Giáo hoàng Grêgôriô I)
- Thời đại Trung Cổ (từ năm 600 đến năm 1548): Hai sự kiện lớn nằm trong thời đại này là Ly giáo Đông - Tây và Cải cách Kháng cách. Thời đại này có tất cả là 165 giáo hoàng, từ vị thứ 65 đến vị thứ 219.
- Thời đại Công đồng Trent (từ năm 1548 đến năm 1958): Đây là thời kỳ của việc củng cố lại và đem ra thi hành các học thuyết, được bắt đầu bằng Công Đồng Trent (từ 1548 đến 1570). Thời đại này có tất cả là 41 giáo hoàng, từ vị thứ 220 đến vị thứ 260.
- Thời đại Công đồng Vatican II (từ năm 1958 đến nay): Thời kỳ này có 5 giáo hoàng, từ vị thứ 261 đến vị thứ 265:
- Giáo hoàng Gioan XXIII (từ năm 1958 đến 1963).
- Giáo hoàng Phaolô VI (từ năm 1963 đến 1978).
- Giáo hoàng Gioan Phaolô I (một năm 1978).
- Giáo hoàng Gioan Phaolô II (từ năm 1978 đến 2005).
- Giáo hoàng Biển Đức XVI (từ năm 2005 đến 2013).
-
Đức Gioan XXIII
-
Đức Phaolô VI
-
Đức Gioan Phaolô I
-
Đức Gioan Phaolô II
-
Đức Benedict XVI
Ảnh hưởng
Là vị Vua chuyên chế duy nhất trên thế giới ngày nay, Giáo hoàng là người được bảo vệ bởi pháp luật của Liên Hiệp Quốc và các công ước quốc tế, đó là không một tòa án nào trên thế giới được xét xử Giáo hoàng một khi ông không muốn (không cho phép).[7][8][9][10] Theo Giáo hội Công giáo Rôma, Giáo hoàng là người kế vị Thánh Phêrô và là người đại diện Thiên Chúa ở trần gian, Giáo hoàng có quyền tối thượng đối với Giáo hội Công giáo Rôma của mình trên khắp thế giới; là vị chủ chăn, người Cha tinh thần của toàn bộ hơn 1,3 tỉ người Công giáo Rôma.Chỉ có duy nhất Giáo hoàng mới có quyền bổ nhiệm các Giám mục ở mọi giáo phận trên thế giới.
Giáo hoàng được bầu bởi Mật nghị Hồng y (conclave) sau khi vị Giáo hoàng đương nhiệm băng hà. Ngày nay, có lẽ Giáo hoàng là người có vị thế nhất trên trái đất, tiếng nói của Giáo hoàng cũng là tiếng nói có uy lực.[11][12] Quyền lực của Giáo hoàng và Tòa Thánh Vatican, bất chấp diện tích nhỏ bé nhất địa cầu của đất nước và nền kinh tế phi thương mại duy nhất hành tinh, đã thâu tóm ảnh hưởng thế giới trên nhiều bình diện từ trong lịch sử xa xưa của loài người cho đến kỷ nguyên hiện đại hôm nay nhờ vào vô số những đóng góp vĩ đại xuất phát từ Giáo hội Công giáo cũng như các thành viên của họ cho nhân loại mà con người ngày nay đang thụ hưởng.[13][14][15][16]
Giáo hoàng luôn được xếp trong danh sách những người có quyền lực và ảnh hưởng nhất hành tinh do các tạp chí danh tiếng thế giới như TIME, Forbes bình chọn.[17][18][19][20][21][22][23][24][25] Giáo hoàng luôn nằm trong danh sách vì thỏa mãn đủ cả bốn tiêu chí căn bản của việc bình chọn, đó là, người có ảnh hưởng tới rất nhiều người; người kiểm soát một nguồn tài chính lớn; người có quyền lực lớn ở nhiều lĩnh vực khác nhau; và, người thực sự dùng quyền lực đó để thi hành chức vụ mình đảm nhiệm. Một trong những vị Giáo hoàng thời hiện đại, Chân phước Gioan Phaolô II, được TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất với nhân loại của thế kỷ 20 và cả những năm đầu thế kỷ 21.[26]
Chính nhờ những cống hiến của Giáo hội Công giáo, đứng đầu là Giáo hoàng, cho nhân loại mà góp phần làm tăng thêm quyền lực thực sự cũng như các quyền lực mềm và quyền lực tinh thần cho Giáo hoàng, trong đó tiêu biểu như:[13]
- Giáo hội Công giáo đã đặt tiền đề cho các ngành khoa học căn bản là: thiên văn học, khoa học vũ trụ, sinh học, di truyền học, hình học, đại số, toán học, khoa học địa lý và ngành bản đồ học, các ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu về thiên nhiên và trái đất, v.v. qua những nhà bác học lỗi lạc của Giáo hội như Linh mục Gregor Mendel, cha đẻ của ngành di truyền học hiện đại, người đề ra định luật Meldel và các nguyên tắc phân ly độc lập, di truyền giống, biến đổi gen; nhà bác học đa tài Nicolaus Copernicus; nhà bác học Blaise Pascal; nhà bác học Linh mục Matteo Ricci [27][28]; v.v.
- Giáo hội Công giáo hình thành hai ngành khoa học cơ bản là triết học và thần học vào buổi bình minh của lịch sử, đặt nền tảng cho các lý luận của con người tới tận ngày nay nhằm giải quyết các vấn đề của bản thể luận, nhận thức luận, tôn giáo, đức tin và linh hồn.[15][16][29][30]
- Giáo hội Công giáo giúp hình thành và phát triển nền nghệ thuật, âm nhạc và kiến trúc phương Tây với các nhà soạn nhạc vĩ đại như Beethoven, Mozart, Bach, các họa sĩ và kiến trúc sư lừng danh mọi thời đại như Michelangelo, Bernini, Raphael, Caravaggio, Antoni Gaudí, Leonardo da Vinci, v.v.
- Giáo hội Công giáo sở hữu và điều hành hơn 1/4 (26%) số bệnh viện và cơ sở chăm sóc y tế trên toàn thế giới, nhiều hơn bất kỳ quốc gia, tổ chức hay định chế nào, bao gồm: hơn 117.000 cơ sở chăm sóc y tế; 5.428 bệnh viện lớn; 18.025 phòng khám đa khoa và chuyên khoa; 15.985 trại tế bần, viện dưỡng lão, trung tâm chăm sóc người tàn tật; 9.962 cô nhi viện; 11.902 trường đào tạo y bác sĩ; 13.945 trung tâm tư vấn hôn nhân gia đình; 529 trung tâm chăm sóc người phong cùi, hủi; hơn 18.000 xưởng sản xuất thuốc và nhà thuốc; và hơn 34.250 cơ sở chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS và cơ sở y tế các loại khác...[14][31][32]
- Giáo hội Công giáo sở hữu và điều hành khoảng 1/5 (25%) hệ thống giáo dục toàn cầu gồm: 67.848 nhà trẻ và trường mẫu giáo; 93.315 trường tiểu học; 42.234 trường trung học; hàng ngàn trường đại học, viện đại học và học viện trên khắp thế giới với số lượng lên tới hơn 50 triệu sinh viên.[15][16][32] Giáo hội Công giáo còn điều hành hàng trăm tổ chức và viện nghiên cứu cao cấp về các lĩnh vực khác nhau khắp thế giới, 01 viện hàn lâm khoa học và nhiều viện nghiên cứu sinh học, vật lý, thiên thể, vũ trụ, lượng tử, toán học, hóa học, hạt nhân...[32] Giáo hội Công giáo đã phát triển và đặt nền tảng cho hệ thống giáo dục đại học hiện đại bằng việc mở các trường đại học đầu tiên trên thế giới như Đại Học Bologna (thành lập năm 1088, là trường đại học đầu tiên trên thế giới và vẫn hoạt động đến ngày nay); Đại Học Paris (1150), Đại Học Oxford (1167); Đại Học Salerno (1173); Đại Học Vicenza (1204), Đại Học Cambridge (1209); Đại Học Salamanca (1218-1219); Đại Học Padua (1222); Đại Học Naples (1224); Đại Học Vercelli (1228); Đại Học La Sapienza (1303, là trường đại học có đông sinh viên nhất thế giới với gần 150.000 sinh viên), v.v.[15][16] Đến giữa thế kỷ XV (khoảng 70 năm trước khi thời kỳ Cải Cách), đã có hơn 50 trường đại học Công giáo trên toàn châu Âu.[15][16]
- Giáo hội Công giáo thiết lập nền tảng của hệ thống Pháp Luật và ngành Luật học. Vào đầu thế kỷ thứ 12, các giáo sĩ Công giáo đã tạo ra một bộ luật hoàn chỉnh và có tính khoa học đầu tiên trên thế giới mà trong đó tất cả điều khoản, các phần tương hợp với nhau trong một tổng thể chung.[15][16] Vào năm 1088, Giáo hoàng Urban II thể nghiệm ngành luật bằng cách cho thành lập Đại Học Bologna với phân khoa luật, từ đó nghề luật nổi lên, và khái niệm như "tổ chức pháp nhân", "cơ quan", "tổ chức", "cơ sở pháp lý", "công ty", "quỹ tín thác"... ra đời.[15][16] Và một loạt các nguyên tắc về luật học như tôn trọng quyền lợi các bên, bình đẳng trước pháp luật, luật pháp quốc tế, xét xử, bồi thẩm đoàn, lệnh đình chỉ bắt giam và việc bắt buộc phải chứng minh sự hồ nghi tội phạm vượt quá khả năng phạm tội... cũng được các tu sĩ Công giáo hình thành.[15][16] Đây chính là sự thành hình cho các ngành luật hiện đại.
- Giáo hội Công giáo điều hành một trong những tổ chức từ thiện lớn nhất hành tinh là Caritas. Caritas Quốc tế (Caritas Internationalis) là một hiệp hội của 164 tổ chức cứu trợ nhân đạo quốc tế và phục vụ phát triển xã hội do Giáo hội Công giáo Rôma điều hành, hoạt động tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.[33] Caritas cùng với Cơ Quan Cứu Trợ Nhân Đạo Liên Hiệp Quốc (UNRRA) là hai tổ chức cứu trợ lớn nhất thế giới. Tại Việt Nam, Caritas được Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam thành lập ở cấp Trung Ương vào năm 1965. Do biến động thời cuộc, tháng 6 năm 1976, Caritas Việt Nam bị Nhà nước Việt Nam yêu cầu phải giải thể. Với sự kiên trì của Hội đồng Giám mục Việt Nam, Caritas Việt Nam đã được tái lập vào ngày 2 tháng 7 năm 2008. Caritas Việt Nam đã tái hòa nhập làm một thành viên của Caritas Quốc tế, tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam vẫn chưa cho phép để Caritas Quốc tế đặt chi nhánh ở Việt Nam.[34]
- Giáo hội Công giáo khởi xướng phong trào đề cao phụ nữ và nữ quyền. Trái với định kiến trọng nam khinh nữ vào thời xưa, Giáo hội đánh giá cao người phụ nữ và đã tôn vinh nhiều vị Thánh nữ, nâng một số Thánh nữ lên hàng Tiến sĩ Giáo Hội, một tước hiệu cao quý chỉ được trao cho một vài vị Thánh lỗi lạc của Giáo hội Công giáo, và tỏ lòng quý trọng các nữ tu. Sỡ dĩ nữ tu không được làm linh mục trong Giáo hội là vì truyền thống do Chúa Giêsu đặt để chỉ chọn người nam làm linh mục, Giáo hội không có thẩm quyền sửa đổi truyền thống này. Nhiều phụ nữ đã để lại vết son trong sử sách Giáo hội như Thánh nữ Hilda là người đã thành lập Đại Học Oxford, Hoàng hậu Matilda và Nữ hoàng đầu tiên của nước Anh Mary Tudor, là những người nữ tiên phong trong lĩnh vực chính trị. Công giáo cũng mang đến cho nền văn minh con người nhiều nhà khoa học và giáo sư là phụ nữ đầu tiên trên thế giới như nữ giáo sư vật lý Italia Trotula ở Salermo trong thế kỷ 11, và nữ giáo sư vật lý Dorotea Bucca, người đã giữ ghế giáo sư y khoa trưởng tại Đại Học Bologna, nữ triết gia Elena Lucrezia Piscopia, người phụ nữ đầu tiên trên thế giới nhận bằng tiến sĩ triết học (1678) và Maria Agnesi (1799), một triết gia, nhà giả kim học, nhà ngôn ngữ học và nhà toán học là người phụ nữ được Giáo hoàng Benedict XIV chỉ định trở thành giáo sư toán học đầu tiên tại Italia vào năm 1750.[15][16] Vào tháng 3 năm 2004, Mary Ann Glendon, giáo sư luật học tại Đại học Harvard, cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Tòa Thánh, chủ tịch Hội đồng Đạo đức Sinh học của tổng thống Mỹ được Giáo hoàng Gioan Phaolô II chỉ định làm Chủ tịch Viện Hàn Lâm Khoa Học Giáo Hoàng và là người phụ nữ đầu tiên trên thế giới đảm trách chức vụ này;[35] trước đó vào năm 1995, Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã chọn bà là người đại diện Vatican tham dự Hội nghị Quốc tế về các Quyền của Phụ nữ tại Bắc Kinh (Trung Quốc) do Liên Hiệp Quốc tổ chức.
- Giáo hội Công giáo kiến tạo và phong phú hóa các hệ thống ngôn ngữ căn bản của con người như tiếng Hy Lạp, Latinh và bảng chữ cái alphabet. Giáo hội cũng sáng tạo ra hệ thống chữ nổi Braille dành cho người mù. Vào năm 1784, Valentin Haüy, anh trai của Abbé Haüy, một linh mục Công giáo người Pháp, người phát minh ra tinh thể học, đã thành lập ngôi trường đầu tiên trên thế giới dành cho người mù mang tên Viện Khiếm thị Hoàng gia thanh thiếu niên tại Paris (ngày nay gọi là Viện Quốc gia người khiếm thị, INJA). Sinh viên nổi tiếng nhất của trường này, Louis Braille, vào học năm 1819, với sự hướng dẫn của Valentin Haüy đã phát triển một hệ thống chữ nổi cho người mù đọc mà ngày nay trên toàn thế giới hệ thống chữ Braille này mang tên ông.[15][16] Tại Việt Nam, vào thế kỷ thứ 17, nhà truyền giáo Dòng Tên Alexandre de Rhodes người Pháp là người đầu tiên sáng tạo, biên soạn và truyền bá chữ quốc ngữ mà người Việt Nam sử dụng ngày nay. Chữ quốc ngữ Việt Nam hiện đại có một số cải tiến theo thời gian, nhưng chủ yếu vẫn lấy nền tảng là công trình tự điển Việt-Bồ-La xuất bản ở Rôma năm 1651 và hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh do linh mục Alexandre de Rhodes biên soạn.[36]
- Giáo hội Công giáo sáng tạo và thiết lập niên lịch mà con người ngày nay sử dụng hằng ngày. Lịch được sử dụng như là một phần của hệ thống duy trì thời gian hoàn hảo mà trong đó ngày tháng và thời gian của một ngày cùng nhau chỉ ra các thời điểm theo thời gian. Bộ lịch được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới ngày nay là lịch Gregory, hay còn gọi là Dương Lịch. Bộ lịch này là tiêu chuẩn quốc tế đo lường thời gian và được sử dụng ở khắp thế giới cho các mục đích khác nhau, bao gồm cả Trung Quốc và Ấn Độ, vốn là những quốc gia trước đây sử dụng lịch khác. Lịch Gregory là bộ lịch do Giáo hoàng Grêgôriô XIII ban hành vào năm 1582 lấy mốc thời gian Chúa Giêsu sinh ra làm năm số 0, còn gọi là Công nguyên, và khoảng thời gian trước năm 0 gọi là trước Công nguyên (Before Christ), sau năm 0 gọi là sau Công nguyên (Anno Domini) và chia lại các thời kỳ của lịch sử con người. Bộ lịch này chia năm thành 12 tháng với 365 ngày, cứ mỗi chu kỳ hết 3 năm thì thêm một ngày vào cuối tháng 2 tạo thành năm nhuận.
An ninh
Giáo hoàng được đánh giá là người được bảo vệ nghiêm nghặt nhất trên thế giới.[37]Theo Reuters, sau Hiệp ước Lateran được ký vào năm 1929 với phần quy định về đảm bảo an ninh cho Vatican và người đứng đầu Tòa Thánh, thì bên cạnh hơn 100 Vệ binh Thụy Sỹ luôn túc trực, Giáo hoàng còn được bảo vệ bởi khoảng 2000 nhân viên thuộc các cơ quan an ninh và phản gián như CIA, FBI, đặc nhiệm và mật vụ Italia, cảnh sát Italia, đội hiến binh Vatican, các đặc vụ gián điệp chìm...[38] Khi ra nước ngoài công du, thì theo luật quốc tế, Giáo hoàng được bảo vệ bằng mọi giá bởi các cơ quan an ninh chuyên nghiệp nhất của quốc gia mà ông đến.[37][39]
Giáo hoàng là một yếu nhân có khả năng quy tụ công chúng đông đảo hiếm thấy trên thế giới. Các buổi lễ do Giáo hoàng cử hành dù ở Vatican hay ở nước ngoài đều lôi kéo được một số lượng khổng lồ các tín hữu, các nguyên thủ quốc gia và ngoại giao đoàn đến tham dự dẫn đến những quan ngại về an ninh cực lớn đối với các giới chức. Thông thường một buổi lễ hay nghi thức phụng vụ ngoài trời do Giáo hoàng chủ sự có đến hàng trăm ngàn người cho tới nhiều triệu người tham dự tùy vào địa điểm tổ chức có thể quy tụ được số lượng bao nhiêu.[40] Vào ngày 1 tháng 5 năm 2011, có hơn 2 triệu người, đông gấp đôi dân số thành phố Rôma, và 23 nguyên thủ quốc gia, 5 gia đình hoàng gia châu Âu đến Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican tham dự Lễ Phong Chân phước cho Giáo hoàng Gioan Phaolô II do Giáo hoàng Benedict XVI cử hành.[41][42] Các kỳ Đại hội Giới trẻ Thế giới được tổ chức 3 năm một lần cũng là dịp Giáo hoàng quy tụ hàng triệu người trẻ khắp năm châu về tham dự, dẫn đến các công tác an ninh càng được thắt chặt. Tại lễ bế mạc Đại hội Giới trẻ Thế giới đầu tiên được tổ chức tại Á châu là ở Philippines vào tháng 1 năm 1995 đã có hơn 5 triệu người tham dự nghi thức do Giáo hoàng Gioan Phaolô II cử hành.[40]
- An ninh cho các chuyến công du của Giáo hoàng
Trong chuyến công du vào tháng 4 năm 2008 của Giáo hoàng Benedict XVI tới Mỹ, để đảm bảo an toàn cho thủ lĩnh các tín đồ Công giáo,[43] tổng thống George W. Bush lúc ấy đã huy động lực lượng an ninh lên mức cao nhất theo thang sự kiện quốc gia là 15.000 cảnh sát và mật vụ, ngang bằng với an ninh mà Lầu Năm Góc áp dụng để bảo vệ các kỳ họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc với sự tham dự của hàng trăm nguyên thủ quốc gia khắp thế giới và an ninh cho lễ nhậm chức của tổng thống Barack Obama.[37][39][43]
Vào tháng 9 năm 2010, trong chuyến thăm chính thức Anh Quốc của Giáo hoàng, các giới chức chính phủ nước này cũng đã điều động một lực lượng an ninh hùng hậu lên đến gần 16.000 cảnh sát, mật vụ làm nhiệm vụ bảo vệ.[44]
Thông thường, an ninh áp dụng để bảo vệ Giáo hoàng trong các chuyến đi ra khỏi Vatican hay tông du nước ngoài được thắt chặt tối đa, bao gồm: Nhân viên nhiều bộ ngành được triển khai để phân tích tổng hợp các nguy cơ và ngăn chặn, đối phó với bất kỳ cuộc tấn công khủng bố nào. Một lực lượng cảnh sát khổng lồ mặc quân phục cũng như thường phục được bố trí trên khắp các đường phố. Chó nghiệp vụ được huy động để phát hiện bom.[37] Cảnh sát phong tỏa toàn bộ giao thông và các tuyến đường, cấm mọi loại xe cộ đi lại trong những khu vực bán kính Giáo hoàng di chuyển bằng việc thiết lập "vùng đóng băng" ở các tuyến phố trung tâm. Phải có giấy phép hay vé tham dự và phải qua kiểm tra quét toàn thân trước khi được vào những nơi này. Hàng nghìn máy quay được thiết lập ở các góc đường và quảng trường. Các tay thiện xạ, bắn tỉa được bố trí trên các điểm cao.[39] Trực thăng cảnh sát tuần tiểu trên trời trong không phận Giáo hoàng hiện diện hay đi ngang qua và thiết lập vùng cấm bay bằng các chiến đấu cơ phản lực tuần tra vùng trời, vùng biển. Cảnh sát cũng triển khai các hệ thống vũ khí đất đối không. Tại các bến cảng, cảnh sát thợ lặn tuần tra dọc các con sông và bên dưới mặt nước, tàu thuyền được trang bị súng máy. Chuẩn bị cho các tấn công bất ngờ bằng vũ khí hóa học và sinh học. Hệ thống y tế lưu động cũng được thiết lập trên quy mô lớn trong trường hợp xảy ra tấn công vào Giáo hoàng hoặc đám đông.[43]
Một chuyến công du của Giáo hoàng phải mất tối thiểu hàng chục triệu đô la chi phí, và được coi là người tốn nhiều tiền nhất cho việc công du trên thế giới, hơn hẳn tổng thống các quốc gia hay các vua và nữ hoàng. Mỗi lần Giáo hoàng đi công du thì các cơ quan an ninh Vatican, và Bộ Nội vụ Italia phải phối hợp với các cơ quan an ninh nước chủ nhà để tính toán chuyến hành trình của Giáo hoàng trước đó nhiều tháng trời, thậm chí là nhiều năm. Các cơ quan này muốn có càng nhiều thời gian chuẩn bị càng tốt để hoạch định cho một chuyến đi nước ngoài như vậy của Giáo hoàng. Nhưng trong một số trường hợp đặc biệt, họ phải làm việc khẩn trương. Đó cũng là lý do mà Vatican cho duy trì một bộ phận nghiên cứu bảo vệ an ninh trên diện rộng, chuyên nghiên cứu và đánh giá những mối đe dọa toàn cầu.
- An ninh cho Lễ An táng và Đăng quang Giáo hoàng
Trước tang lễ vào sáng thứ sáu ngày 8 tháng 4 năm 2005, NATO và không quân Italia (Aeronautica Militare Italiana) đã cho thiết lập vùng cấm bay trên không phận toàn thành phố Rôma và bán kính 5 dặm xung quanh đó. Các máy bay chiến đấu cường kích có gắn tên lửa hành trình và tên lửa không đối không cùng hệ thống tên lửa không đối đất của NATO được triển khai. Dưới mặt đất quân đội cũng lắp đặt các hệ thống tên lửa phòng thủ, bệ phóng tên lửa chống hạm và đất đối không xung quanh thành phố Vatican với sự cho phép miễn cưỡng của Hồng Y Đoàn vì tình thế quá khẩn trương. Dọc bờ biển Địa Trung Hải, các tàu chiến của hải quân Italia (Marina Militare) được bố trí tuần tra ngày đêm cùng hệ thống tàu ngầm có ngư lôi tìm diệt và tên lửa hành trình. Trên các con sông bao bọc thành phố Rôma, cảnh sát tuần tra dày đặc bằng thuyền máy và canô, nhất là dòng sông Tiber huyền thoại chảy ngang qua Vatican. Hơn 1000 tay súng bắn tỉa được lệnh án ngữ mọi điểm cao và hỗ trợ cho hàng chục ngàn cảnh sát rà phá bom mìn trên đường phố. Các trực thăng chiến đấu và trinh sát cũng được huy động để quan sát, bảo vệ Rôma từ trên không. Rôma với 2 triệu người dường như quá tải bởi dòng người gấp 3 lần dân số của nó đổ về. Chiều hôm trước ngày lễ an táng, chính phủ đã cho đóng cửa 2 sân bay bận rộn nhất nước là sân bay quốc tế Leonardo da Vinci (Fiumicino) và sân bay quân sự Ciampino ở Rôma. Các tuyến tàu điện ngầm và xe buýt cũng bị buộc phải ngưng hoạt động đến hết lễ tang.[45][47][48][49][50]
Những biện pháp an ninh trên cũng được áp dụng cho lễ đăng quang của Giáo hoàng Benedict XVI vào ngày 24 tháng 4 năm 2005.
Quyền bính
Giáo hoàng với Triều thiên Ba tầng (Papal Tiara) tượng trưng cho việc cai quản, thánh hóa, chăm sóc các tín hữu. Gậy Mục tử (Crosier) tượng trưng cho quyền bính. Dây Pallium được làm bằng lông cừu để nói lên Giáo hoàng là chủ chiên lành thay Chúa Kitô vác chiên trên vai; nhẫn Ngư phủ (Ring of the Fisherman) trên mặt có hình Thánh Phêrô đang đánh cá. Khi Giáo hoàng băng hà thì nhẫn đó được hồng y giáo chủ nhiếp chính đập vỡ đi để tránh giả mạo.Bầu cử, qua đời và thoái vị
Bầu cử
Qua đời
Thoái vị
Các biểu tượng và huy hiệu của Giáo hoàng
Mỗi triều đại Giáo hoàng đều có biểu tượng và huy hiệu riêng. Tuy nhiên, biểu tượng và huy hiệu của Tòa Thánh và Quốc gia Vatican thì chỉ có một.Văn kiện của Giáo hoàng
Các giáo hoàng phát biểu hoặc đưa ra các tài liệu theo từng loại để nhận biết với từng mức độ thẩm quyền và ảnh hưởng chung đến giáo hội. Các văn kiện đó phải bởi chính giáo hoàng chứ không phải bởi một người trung gian nào ghi nhận.- Tông Hiến (Constitutio Apostolica): là một loại văn kiện rất quan trọng, bao gồm những đạo luật sửa chữa, bổ sung hay làm mới do giáo hoàng đưa ra. Tông hiến tác động rất lớn đối với hệ thống Giáo luật của Giáo hội và Pháp luật Thành Vatican.
- Tông Thư (Littera Apostolica): Là những lá thư kém quan trọng hơn so với Tông Hiến, chúng có thể được viết ra dựa trên một vấn đề có liên quan tới học thuyết (ví dụ: Thư của Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhân dịp bắt đầu thiên niên kỷ thứ ba). Chúng cũng có thể thông báo một quyết định nào đó của giáo hoàng, chẳng hạn như phong chân phước một người nào đó, nâng một nhà thờ nào đó lên thành Vương cung thánh đường… nhưng nó mang nghĩa riêng tư.
- Tông Huấn: Văn kiện này tương tự như Tông Thư, nhưng chứa đựng nhiều những kết luận, những đường hướng, những chỉ dẫn của giáo hoàng, sau khi đã suy xét vấn đề.
- Tông Dụ (Epistula Apostolica): Văn kiện hướng dẫn của giáo hoàng dành cho những người cấp dưới thực hiện.
- Sắc lệnh (Decretum): là những quy tắc pháp lý được ban hành để giải quyết những vấn đề cấp bách, không có tính ổn định của Giáo hội, nhưng chưa phải là luật hoặc đang trong giai đoạn hình thành luật. Sắc lệnh gồm có tổng quát và riêng biệt (khi có đơn thỉnh cầu để xin một ân ban nào đó).
- Sắc chỉ (Bulla): là văn kiện bổ nhiệm các chức vụ trong giáo hội.
- Tự sắc (Motu Proprio): Văn kiện thể hiện ý kiến hoặc tư tưởng riêng của giáo hoàng, không phải để trả lời cho một yêu cầu hay một ý kiến của người khác. Tình trạng hợp hiến do giáo hoàng đó quyết định. Tự sắc thường không tác động đến Giáo luật hiện hành của Giáo hội.
- Thông Điệp: Những thông điệp ngắn gọn được viết hay được đọc ra, thường truyền đạt lời đón chào riêng của giáo hoàng đến với các cá nhân hay các nhóm người. Nội dung thường là để cổ võ, khuyến khích đời sống đức tin, luân lý dựa trên những biến đổi của xã hội, thế giới.
- Tuyên bố Chung (Declaratio): Tức là tuyên bố chung của giáo hoàng với một vị lãnh đạo của một tôn giáo khác có liên quan đến sự hiểu biết chung.
- Bài giảng: Tức là các bài giảng của giáo hoàng về những đoạn Kinh Thánh tại Thánh Lễ.
- Buổi Tiếp kiến: Buổi Tiếp kiến Chung của giáo hoàng dành cho dân chúng, diễn ra vào Thứ Tư hằng tuần, tại Quảng trường Thánh Phêrô hoặc một địa điểm nào đó tại Vatican như Đại Thính Đường Phaolô VI. Các bài diễn thuyết của giáo hoàng khi tiếp kiến chung thường phản ánh tình hình thời đại. Buổi Tiếp kiến Riêng của giáo hoàng dành những cá nhân hay các nhóm. Chủ đề các bài nói chuyện lúc này tương ứng, thích hợp với khách mời. Ví dụ, vấn đề về y học đối với một nhóm các bác sĩ; hay tình hình thế giới với các nguyên thủ quốc gia, các nhà ngoại giao; những giảng dạy và những thủ tục của Giáo hội đối với các giám mục, viên chức của Giáo triều Rôma. Các buổi tiếp kiến dạng này thường diễn ra tại Sảnh Đường Công Nghị, Điện Tông Tòa hoặc Đại Thính Đường Phaolô VI.
- Diễn Thuyết: Các văn kiện của giáo hoàng bên ngoài phạm vi của Thánh Lễ hay bên ngoài của những buổi tiếp kiến, có thể khi giáo hoàng đến thăm một nơi nào đó.
Các bài hát về Giáo hoàng
Các ngụy Giáo hoàng
Các Giáo hoàng ở ngôi dài nhất
- Piô IX (1846-1878): 31 năm, 7 tháng và 23 ngày (11.560 ngày).
- Gioan Phaolô II (1978-2005): 26 năm, 5 tháng và 18 ngày (9665 ngày).
- Lêô XIII (1878-1903): 25 năm, 5 tháng và 1 ngày (9.281 ngày).
- Piô VI (1775-1799): 24 năm, 6 tháng và 15 ngày (8.962 ngày).
- Adrian I (772-795): 23 năm, 10 tháng và 25 ngày (8.729 ngày).
- Piô VII (1800-1823): 23 năm, 5 tháng và 7 ngày (8.560 ngày).
- Alexander III(1159-1181): 21 năm, 11 tháng và 24 ngày (8.029 ngày).
- Sylvester I (314-335): 21 năm, 11 tháng và 1 ngày (8.005 ngày).
- Lêô I (440-461): 21 năm, 1 tháng, và 13 ngày (7.713 ngày).
- Ubanô VIII (1623-1644): 20 năm, 11 tháng và 24 ngày (7.664 ngày).
Các Giáo hoàng ở ngôi ngắn nhất
Bên cạnh đó có những giáo hoàng có thời gian trị vì rất ngắn chưa tới một tháng. Vì vậy, nếu triều đại của một giáo hoàng được bắt đầu vào ngày 1 tháng 8 và qua đời vào ngày 2 tháng 8, thì triều đại của vị giáo hoàng này sẽ được tính là 2 ngày.- Ubanô VII (15 tháng chín-27 tháng chín 1590): 13 ngày, mất trước khi đăng quang.
- Boniface VI (tháng tư, 896): 16 ngày.
- Celestine IV (25 tháng mười-10 tháng mười một, 1241): 17 ngày, mất trước khi đăng quang.
- Theodore II (tháng mười hai, 897): trong 20 ngày.
- Sisinnius (15 tháng một tháng hai 4.-708): 21 ngày.
- Marcellus II (9 tháng tư.-1 tháng năm 1555): 22 ngày.
- Đamaxô (17 tháng bảy-9 tháng tám 1048): 24 ngày.
- Piô III (22 tháng chín-18 tháng mười 1503): 27 ngày.
- Lêô XI (1 tháng tư-27 tháng tư 1605): 27 ngày.
- Biển Đức V (22 tháng năm-23 tháng sáu 964): 33 ngày.
- Gioan Phaolô I (26 tháng tám-28 tháng chín 1978): 33 ngày.
Các Tước hiệu của Giáo hoàng
Giáo hoàng có nhiều danh xưng khác nhau như:[51]- Đức Giáo Hoàng (Pope, His Holiness)
- Đức Thánh Cha (Holy Father)
- Giám mục Thành Rôma (Bishop of Rome)
- Đại diện Chúa Kitô (Vicar of Christ)
- Đấng Kế vị Thánh Phêrô, Thủ lãnh các Tông Đồ (Successor of the Prince of the Apostles)
- Thủ Lãnh Tối Cao của Giáo Hội Hoàn Vũ (Supreme Pontiff of the Universal Church)
- Giáo Chủ nước Ý (Primate of Italy)
- Tổng Giám Mục và Tổng Giáo Chủ Giáo tỉnh Rôma (Archbishop and Metropolitan of the Roman Province)
- Quốc vương nước Vatican (Sovereign of the State of the Vatican City)
- Tôi tớ các Tôi tớ của Thiên Chúa (Servant of the Servants of God)
- Đức Giáo Hoàng Rôma (Romanus Pontifex, The Roman Pontiff)
- Thủ Lãnh của Giám mục Đoàn (Caput Collegii, Head of the College of Bishops)
- Thượng Phụ Giáo Chủ Tây Phương (Patriarch of the West)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét