Linh
Mục Alexandre De Rhodes (Cha Ðắc-Lộ)
Khai
Sinh Chữ Quốc Ngữ
Linh
Mục Alexandre De Rhodes (Cha Ðắc-Lộ) Khai Sinh Chữ Quốc Ngữ.
Roma
(Vat. 14-12-2015) - Cha Alexandre de Rhodes trở thành nhà truyền giáo
gương mẫu và là một trong những vị thừa sai vĩ đại nhất
của lịch sử Giáo Hội Công Giáo.
Nhân
dịp kỷ niệm 390 năm (1625-2015) Cha Alexandre de Rhodes cùng với 4
Linh Mục dòng Tên và một tín hữu Nhật Bản cập bến Hội An
(gần Ðà Nẵng) xin gợi lại những nét đặc thù của nhà
truyền giáo có công rất lớn đối với Giáo Hội Công
Giáo và nhất là, đối với dân tộc Việt Nam, vì Cha đã
khai sinh ra chữ Quốc Ngữ.
1.
Nhà Truyền Giáo Gương Mẫu Của Thế Kỷ XVII
Theo
một số sử liệu, Linh Mục Alexandre de Rhodes - giáo sĩ Ðắc-Lộ
- sinh năm 1591. Một số sử liệu khác ghi năm 1593.
Linh
Mục Alexandre de Rhodes chào đời tại Avignon, miền Nam nước
Pháp. Alexandre gia nhập Tập Viện dòng Tên tại Roma vào thời
kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà
phát triển rất mạnh. Tuy nhiên, cùng với đà tiến này,
Giáo Hội Công Giáo cũng gặp sức kháng cự vũ bão của
chính quyền các dân tộc được rao giảng Tin Mừng. Vì thế,
bên cạnh nhiệt tâm truyền giáo, còn phải kể ước muốn
đổ máu đào minh chứng cho Ðức Chúa Giêsu Kitô của các
vị thừa sai tiên khởi.
Trong
bối cảnh đó, Cha Alexandre de Rhodes đã xin và được Bề Trên
chỉ định đi truyền giáo tại Nhật Bản.
Ngày
4 tháng 4 năm 1619, Cha lên đường với số tuổi 26, cùng
với kiến thức khá sâu rộng về thiên văn học và toán
học.
Cha
Alexandre có thân hình cường tráng, biểu lộ sức khoẻ dồi
dào và tính tình vui vẻ. Nơi Cha, nổi bật đức tính lạc quan,
luôn nhìn khía cạnh tích cực của vấn đề. Cha thích nghi nhanh
chóng với mọi môi trường sống. Cha cũng giản dị tự
nhiên trong giao tế với người khác. Ngoài ra, Cha có tinh
thần linh động, trí nhớ dẻo dai và tâm hồn bao dung. Nhất
là, Cha có tấm lòng nhiệt thành, không bao giờ lùi bước
trước khó khăn hoặc gian nguy.
Ngay
từ xuân trẻ, Cha Alexandre biết quên mình để đi đến với
người khác và dễ dàng chấp nhận người khác. Với tất
cả đức tính cao quý ấy, Cha Alexandre de Rhodes trở thành nhà
truyền giáo gương mẫu và là một trong những vị thừa sai vĩ
đại nhất của lịch sử Giáo Hội Công Giáo.
Nhờ
Cha mà thế giới Tây phương thời đó hiểu rằng, không
phải cái nghèo đói hoặc kém văn minh của các dân tộc
Châu Á lôi kéo sự chú ý của các vị thừa sai, cho bằng,
chính nét đẹp cao quý tinh thần của các dân tộc Á Châu
đã thu hút và khơi động nhiệt tâm tông đồ của các nhà
truyền giáo..
Trước
tiên, Cha Alexandre de Rhodes cập bến tại Goa, đợi chờ cơ hội
thuận tiện đặt chân lên đất Nhật Bản. Nhưng tình hình
bách hại Kitô-Giáo dữ dội tại đây khiến các Bề Trên
buộc lòng chỉ định Cha đi Trung Quốc. Cha lên tàu đi Macao. Nơi
ngưỡng cửa Trung Quốc, Cha ghi lại nhận xét:
-
Người Trung Hoa rất ngạc nhiên khi nhìn thấy bản đồ chúng
tôi vẽ. Trung Quốc vĩ đại của họ chỉ là một chấm nhỏ
trong vũ trụ trái đất bao la. Trái lại, nơi bản đồ trái
đất hình vuông do họ vẽ, Trung Quốc nằm chính giữa, đúng
như tên gọi. Sau đó, họ vẽ biển nằm bên dưới Trung Quốc,
trong đó rải rác mấy đảo nhỏ, và họ đề tên: Âu Châu,
Phi Châu và Nhật Bản...
6
năm truyền giáo tại Goa và tại Macao, tuy hơi ngắn ngủi, cũng
đủ giúp Cha Alexandre de Rhodes có cái nhìn độc đáo và đúng
đắn nhất của vị thừa sai vào thế kỷ XVII. Cha viết:
-
Chúng ta thường tỏ ra quý chuộng những người ngoại giáo.
Nhưng khi họ trở thành Kitô-hữu, chúng ta không đoái hoài
đến họ nữa. Thậm chí còn bắt người theo Ðạo phải từ
bỏ y phục địa phương. Chúng ta đâu biết rằng, đây là
đòi buộc quá khắt khe, mà ngay cả Thiên Chúa, Ngài cũng
không đòi buộc! Chúng ta ngăn cản người ngoại giáo, không
cho họ cơ hội dễ dàng gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Riêng
tôi, tôi cực lực phản đối những ai muốn bắt buộc
người đàn ông Trung Hoa, khi theo Ðạo, phải cắt bỏ mái tóc
dài họ vẫn để, y như các phụ nữ trong xứ. Hành động
như thế, chúng ta gây thêm khó khăn cho các nam tín hữu Trung
Hoa, một khi theo Ðạo Công Giáo, không còn tự do đi lại trong
xứ sở, hoặc tìm được dễ dàng công ăn việc làm. Phần
tôi, tôi xin giải thích rằng, điều kiện để trở thành
Kitô-hữu là phải từ bỏ lầm lạc, chứ không phải cắt
bỏ tóc dài.
Suy
tư của Cha Alexandre de Rhodes làm nổi bật ý tưởng và phương
pháp tuyệt diệu của một vị thừa sai khôn ngoan, biết phân
biệt đâu là đòi buộc chính yếu của Phúc Âm và đâu chỉ
là lợi ích riêng tư của Âu Châu. Nhưng phải đợi mãi
đến 40 năm sau, 1659, nghĩa là một năm trước khi từ trần,
Cha Alexandre mới trông thấy phương pháp truyền giáo của mình
được Tòa Thánh chính thức công nhận. Trong văn thư gửi
các Giám Mục tiên khởi của Hội Thừa Sai Paris, Bộ Truyền
Giáo Các Dân Tộc viết:
-
Ðừng mất công thuyết phục các dân tộc Á Châu phải từ
bỏ các lễ nghi và tập tục của họ. Không gì ngu xuẩn cho
bằng, muốn biến đổi người Trung Hoa thành người của một
quốc gia Châu Âu nào đó! Ðừng tìm cách đưa các tập tục
của chúng ta vào xứ sở của họ, nhưng chỉ đưa vào đó
Ðức Tin. Ðức Tin không hề xua trừ cũng không làm tổn
thương các nghi lễ cùng các tập tục, miễn là các tập tục
và nghi lễ này không quá xấu xa.
2.
Cha Alexandre De Rhodes - Giáo Sĩ Ðắc-Lộ - Thừa Sai Tại Việt Nam
Sau
6 năm giảng đạo tại Goa và Macao, vì thời cuộc biến chuyển,
Bề Trên lại chỉ định Cha Alexandre de Rhodes đi Việt Nam.
Ðầu
năm 1625, Cha Alexandre cùng với 4 Linh Mục dòng Tên và một
tín hữu Nhật Bản, cập bến Hội An, gần Ðà Nẵng. Cha bắt
đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Ðắc-Lộ. Thầy
dạy tiếng Việt cho Cha là một thiếu niên trạc tuổi 10-12.
Ðây là một cậu bé thông minh. Cha Ðắc-Lộ vô cùng mộ
mến khi nói về vị thầy tí hon:
-
Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất
cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức
phát âm của từng chữ. Cậu không hề có kiến thức gì
về ngôn ngữ Châu Âu, thế mà, cũng trong vòng 3 tuần lễ
này, cậu có thể hiểu tất cả những gì tôi muốn diễn tả
và muốn nói với cậu. Ðồng thời, cậu học đọc học viết
tiếng La-tinh và có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên
trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé.
Sau đó, cậu trở thành Thầy Giảng giúp việc các Cha Thừa
Sai và là dụng cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin
Mừng nơi quê hương Việt Nam thân yêu của Thầy và nơi
vương quốc Lào láng giềng.
Từ
đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của Cha Alexandre de
Rhodes, tức giáo sĩ Ðắc-Lộ. Tuy nhiên, duyên nợ của Cha
đối với quê hương Việt-Nam, không xuôi chảy và vẹn toàn.
Cuộc đời truyền giáo thật bấp bênh và vô cùng trôi nổi.
Trong vòng 20 năm, Cha bị trục xuất đến 6 lần. Nhưng sau cả 6
lần ấy, Cha đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho
phép. Sau này, khi vĩnh viễn từ biệt Việt Nam, Cha đau đớn
thú nhận:
-
Trái tim tôi vẫn còn ở lại nơi đó!
Chính
tình yêu đặc biệt Cha dành cho Việt Nam giải thích cho sự
thành công của Cha, trong lãnh vực truyền đạo cũng như trong
lãnh vực ngôn ngữ, văn hóa.
Thời
gian Cha Ðắc-Lộ giảng đạo tại Việt Nam cũng là thời kỳ
các Cha Thừa Sai dòng Tên hoạt động rất hăng say và hữu
hiệu. Riêng Cha Ðắc-Lộ, Cha truyền đạo từ Nam ra Bắc. Cha
kể lại công cuộc truyền giáo tại Bắc Phần:
-
Khi chúng tôi vừa đến kinh đô Bắc Kỳ, tức khắc nhà vua
truyền lệnh cho tôi phải xây một nhà ở và một nhà thờ
thật đẹp. Dân chúng tuốn đến nghe tôi giảng đạo đông
đến nỗi, tôi phải giảng đến 4 hoặc 6 lần trong một ngày.
Người chị vua và 17 người thân trong gia đình vua xin lãnh
nhận bí tích Rửa Tội. Nhiều tướng lãnh và binh sĩ cũng xin
theo đạo. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thấy các
vị sư đã mau mắn từ bỏ bụt thần để theo Ðạo Công Giáo.
Tất cả đều dễ dàng chấp nhận khi tôi giải thích cho họ
hiểu giáo lý Công Giáo rất phù hợp với lý trí và
lương tâm con người. Các tín hữu Công Giáo Việt Nam có
Ðức Tin vững chắc đến độ, không gì có thể rút Ðức
Tin ra khỏi lòng họ. Nhiều người phải đi bộ suốt 15 ngày
đàng để được xưng tội hoặc tham dự Thánh Lễ .. Nhưng
phải thành thật mà nói, tôi không thể chu toàn cách tốt
đẹp mọi công tác truyền đạo này, nếu không có sự trợ
giúp tuyệt vời của các Thầy Giảng. Vì nhận thấy mình là
Linh Mục duy nhất giữa một cánh đồng truyền đạo bao la, nên
tôi chọn trong số các tín hữu, những thanh niên không lập
gia đình và có lòng đạo đức sâu xa cũng như có nhiệt
tâm rao giảng Tin Mừng, để giúp tôi. Những người này
công khai thề hứa sẽ dâng hiến cuộc đời để phụng sự
Chúa, phục vụ Giáo Hội, sẽ không lập gia đình và sẽ vâng
lời các Cha Thừa Sai đến Việt Nam truyền đạo. Hiện tại
có tất cả 100 Thầy Giảng đang được thụ huấn trong chủng
viện và được các tín hữu trang trải mọi phí tổn.
Nhưng
rồi, Cha Ðắc-Lộ không được ở mãi nơi quê hương Việt
Nam Cha hằng yêu mến. Năm 1645, Cha bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn
trục xuất khỏi Việt Nam.
Khi
trở lại Âu Châu, Cha Ðắc-Lộ vận dụng mọi khả năng hiểu
biết về công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu, đã xin
Tòa Thánh gửi các Giám Mục truyền giáo đến Á Châu, để
các ngài có thể truyền chức Linh Mục cho các thầy giảng
bản xứ. Có thể trong thời kỳ này, những bài giảng
thuyết hùng hồn của Cha Ðắc-Lộ nơi đất Pháp đã gây
chấn động mạnh trong tâm hồn các tín hữu Công Giáo Pháp
và đã gợi hứng cho việc thành lập Hội Thừa Sai Paris.
3.
Cha Alexandre De Rhodes - Giáo Sĩ Ðắc-Lộ - Khai Sinh Chữ Quốc
Ngữ
Năm
1651, chữ Quốc Ngữ do Cha Alexandre de Rhodes (giáo sĩ Ðắc-Lộ)
cưu mang, chính thức ra đời tại nhà in Vatican. Ðó là cuốn
tự điển Việt-Bồ-La.
Nhân
dịp cử hành 300 năm ngày qua đời của Cha Ðắc-Lộ, nguyệt
san MISSI (Magazine d'Information Spirituelle et de Solidarité Internationale)
do các Cha Dòng Tên người Pháp điều khiển, dành trọn số
tháng 5 năm 1961 để tưởng niệm và ca tụng Cha Ðắc-Lộ,
nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ
nói chung và của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói riêng.
Cha
Ðắc-Lộ qua đời ngày 5 tháng 11 năm 1660, tại thành phố
Ispahan, bên Ba-Tư, tức là sau 15 năm chính thức bị trục xuất
khỏi Việt Nam.
Nguyệt
san MISSI nói về công trình khai sinh chữ quốc ngữ với tựa
đề: "Khi cho Việt-Nam các mẫu tự La-tinh, Cha Alexandre de
Rhodes đưa Việt-Nam đi trước đến 3 thế kỷ".
Tiếp
đến, tờ MISSI viết:
...
Khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách cho ra đời tại
Roma nơi nhà in Vatican, quyển tự điển đầu tiên và các
sách đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, Cha Alexandre de Rhodes đã
giải phóng nước Việt Nam.
...
Thật vậy, giống như Nhật-Bản và Triều-Tiên, người Việt-Nam
luôn luôn sử dụng chữ viết của người Tàu và bị nô
lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người
Triều-Tiên mới chế biến ra chữ viết riêng của họ. Còn
người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm, phải bó tay và
đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của
người Tàu.
...
Trong khi đó, người Tàu của Mao-Trạch-Ðông đang tìm cách
dùng các mẫu tự La-tinh để chế biến ra chữ viết của mình,
nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt
Nam, nhờ công ơn Cha Alexnadre de Rhodes Ðắc-Lộ, tiến bộ
trước người Tàu đến 3 thế kỷ!
...
Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng Cha Ðắc-Lộ khởi xướng ra
chữ quốc ngữ. Trước đó, các Cha Thừa Sai dòng Tên
người Bồ-Ðào-Nha ở Macao đã nghĩ ra một số phát âm
tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La-tinh rồi. Tuy nhiên, Cha
Ðắc-Lộ là người đưa công trình chế biến chữ quốc ngữ
đến chỗ kết thúc vĩnh viễn và thành công, ngay từ năm
1651, là năm cuốn tự điển Việt-Bồ-La chào đời. Ðây
cũng là năm sinh chính thức của chữ Quốc Ngữ. Và cuộc
khai sinh diễn ra tại Roma, nơi nhà in Vatican. Chính nơi nhà in
Vatican mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình.
...
Ðã từ lâu đời, người Việt Nam viết bằng chữ Tàu,
hoặc bằng chữ Nôm, do họ sáng chế ra. Nhưng đa số người
Việt Nam không thể đọc và viết được chữ Tàu, vì theo
lời Cha Ðắc-Lộ, Tàu có đến 80 ngàn chữ viết khác nhau.
Các nhà truyền giáo đầu tiên khi đến Việt Nam, bắt đầu
dùng mẫu tự La-tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe
được từ tiếng Việt. Khi Cha Ðắc-Lộ đến Việt Nam, có
một số phát âm tiếng Việt được viết bằng chữ La-tinh
rồi. Vì thế, có thể nói rằng, công trình sáng tạo ra chữ
quốc ngữ trước tiên là công trình chung của các Nhà
Thừa Sai tại Việt Nam. Nhưng khi chính thức in ra công trình
khảo cứu chữ viết tiếng Việt của mình, là cùng lúc, Cha
Ðắc-Lộ khai sinh ra chữ viết này, ban đầu được các Nhà
Truyền Giáo sử dụng, sau đó, được toàn thể dân tộc
Việt-Nam dùng và biến nó thành chữ quốc ngữ. Tất cả
các nước thuộc miền Viễn Ðông từ đó ước ao được
có chữ viết cho quốc gia mình y như chữ quốc ngữ này vậy!
(Trên
đây là phần trích dẫn từ nguyệt san MISSI).
Về
phần Cha Ðắc-Lộ, chính Cha viết về ngôn ngữ của một dân
tộc mà Cha rất mộ mến như sau:
-
Khi tôi vừa đến Nam Kỳ và nghe người dân bản xứ nói,
đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim
hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ
không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế!
Thêm vào đó, tôi thấy hai Cha Emmanuel Fernandez và Buzomi, khi
giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có Cha Francois Pina
là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của
Cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai Cha
Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi
khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm
chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở
Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học
biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng,
tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. Kết quả các
bài giảng bằng tiếng Việt lợi ích nhiều hơn các bài giảng
phải có người thông dịch lại.
...
Ðức Chúa Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói:
"Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên
Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ
đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh
em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị
người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ
xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây
phần thưởng dành cho anh em ở trên Trời thật lớn lao.
Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối
xử như thế .. Thầy nói với anh em là những người đang
nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho cho kẻ ghét
anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện
cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ
cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh em, thì cũng
đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì
của anh em, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì
cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy .. Anh em hãy
yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng
được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ
lớn lao, và anh em sẽ là con Ðấng Tối Cao, vì Người vẫn
nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác"
(Luca 6,20-23/27-35).
("MISSI"
(Magazine d'Information Spirituelle et de Solidarité Internationale),
Mai/1961, trang 147-173)
Sr.
Jean Berchmans Minh Nguyệt
(Radio
Vatican)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét