label

Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012

Hội nghị Rimini bàn về tự do tôn giáo



Hội nghị Rimini bàn về tự do tôn giáo
WHĐ (29.08.2012) – Tự do tôn giáo là một trong những chủ đề được đề cập tại Hội nghị Rimini lần thứ 33 do phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng tổ chức.
Đây là một phong trào Công giáo do linh mục Luigi Giussiani thành lập từ năm 1954. Phong trào này hiện diện tại 70 quốc gia, đa số thành viên ở Italia.
Tham dự Hội nghị lần này –kéo dài từ ngày 19 đến 25 tháng Tám 2012– có ông Nassir Adulaziz al-Nasser, Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc; ông Giulio Terzi, Bộ trưởng ngoại giao Italia, và Đức hồng y Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Đối thoại Liên tôn.
Ông Al-Nasser đã bày tỏ mối quan tâm đối với rất nhiều vụ vi phạm tự do tôn giáo ở nhiều nơi trên thế giới và ông hứa rằng Liên Hợp Quốc sẽ tiếp tục giám sát những gì đang xảy ra.
Ngoại trưởng Italia cho biết chính phủ đang tích cực tham gia đối thoại với các nước Địa Trung Hải về cả hai vấn đề kinh tế và văn hóa. Khoảng 20% ​​thương mại của Ý là với các nước Bắc Phi và Trung Đông.
Ông cũng nói rằng Italia quan tâm đến việc bảo vệ các nhóm tín đồ thiểu số, và nhất là các Kitô hữu.
Ông nói tiếp, ở châu Âu tôn giáo đã bị gạt ra bên lề từ lâu. Chủ đề tự do tôn giáo bị coi là “rắc rối”, nhưng trong lĩnh vực chính trị, quan tâm đến tự do tôn giáo và nhân quyền là điều quan trọng.
Trích dẫn lời Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, ông cho rằng hạn chế tự do tôn giáo có nghĩa là giảm thiểu những gì thuộc về con người.
Về phần mình, Đức hồng y Tauran nói rằng nếu ngày nay người ta đề cập nhiều đến tự do tôn giáo là vì đó là một nguyên tắc bị vi phạm thường xuyên. Trường hợp gần đây nhất là của một cô gái ở Pakistan mắc hội chứng Down đã bị buộc tội báng bổ.
Cho đến khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai, vấn đề tự do tôn giáo là chuyện nội bộ của mỗi quốc gia. Sau những kinh hoàng của cuộc chiến tranh đó, nhu cầu về quyền con người là đối tượng của các thỏa ước quốc tế.
ĐHY nói tiếp: Tự do tôn giáo có nền tảng nơi chính bản chất của con người, được Thiên Chúa tạo dựng, và vì vậy phải tôn trọng quyền tự do ấy, ít nhất ở mức độ không can thiệp vào quyền lợi của người khác.
Vì thế, Nhà nước không được xen vào tôn giáo và phải thừa nhận rằng con người bản chất tôn giáo và tôn giáo là một phần của xã hội. Ngài kết luận: “Một thế giới không có Thiên Chúa sẽ là một thế giới phi nhân”.
(Zenit, 27-08-2012)
 
Minh Đức

Giáo phận Phụng Tường, Trung Quốc: Thư mục vụ của Đức giám mục giáo phận về Năm Đức Tin


Nhà thờ chính tòa Phụng Tường

Giáo phận Phụng Tường, Trung Quốc: Thư mục vụ của Đức giám mục giáo phận về Năm Đức Tin
WHĐ (30.08.2012) – “Suy tư về đức tin trong Năm Đức Tinchủ đề Thư mục vụ dài về Năm Đức Tin của Đức cha Luca Lý Kính Phong, vị Giám mục đã chín mươi tuổi của giáo phận Phụng Tường, thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Thư mục vụ mới được viết vào ngày 15 tháng 8, Lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời vừa qua.
Lá thư gồm 22 điểm, nhằm giúp các tín hữu chuẩn bị và cử hành Năm Đức Tin một cách rất chi tiết, theo mong muốn của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI. Năm Đức Tin của Hội Thánh Công giáo bắt đầu vào ngày 11 tháng Mười sắp tới.
Trong số các vấn đề được đề cập, Đức cha Lý nói đến cuộc khủng hoảng đức Tin trong thế giới ngày nay, mối tương quan giữa đức Tin và lý trí, giữa đức Tin và mê tín, mặc khải của Thiên Chúa, việc thông truyền mc khải, Kinh Thánh, truyền thống và huấn quyền của Hội Thánh, các chứng sống động về đức Tin (gương mẫu của các thánh, đặc biệt là các vị tử đạo), các thư của “các tông đồ ngày nay (theo Đức cha Lý, đó là tất cả các tài liệu của Huấn quyền của Hội thánh và của Đức giáo hoàng).
Đức cha Lý đưa ra những phương cách cụ thể để sống Năm Đức Tin: trước hết, các linh mục phải sống đời sống đức Tin một cách gương mẫu, phải tổ chức học hỏi các tài liệu Công đồng, Sách Giáo lý Hội thánh Công Giáo, Kinh Thánh, và các tài liệu khác; các tu sĩ nam nữ và thành viên của các Hiệp hội Công giáo phải cam kết sống đặc sủng của mình; mỗi giáo xứ phải lên chương trình học hỏi Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (mỗi tuần hai số) và đọc kinh Mân Côi chung hằng ngày; các giáo hạt phải họp nhau để đào sâu các tài liệu của Hội thánh; không được đưa các bài hát dân ca thế tục vào các cử hành phụng vụ.
Cuối cùng, Đức cha Lý trích dẫn lời Đức giáo hoàng, xin Đức Mẹ Trung Hoa, Mẹ phù hộ các giáo hữu, chuyển cầu cho các Kitô hữu biết sống Năm Đức Tin này.
(Agenzia Fides, 29-08-2012)
 
Minh Đức
TRONG CƠN NGUY KHỐN HÃY CHẠY ĐẾN CÙNG ĐỨC MẸ!


... Con viết thư này để bày tỏ lòng biết ơn chân thành của con và của toàn gia đình con đối với Đức Mẹ MARIA, vì bao ơn lành nhận được từ Hiền Mẫu Thiên Quốc. Tuy nhiên, con chỉ xin ghi lại 2 ơn lành.

Ơn lành thứ nhất xảy ra vào năm 1980, khi anh con 38 tuổi lâm trọng bệnh. Năm ấy anh bị cúm nặng rồi bị nhiễm một thứ vi khuẩn nguy hiểm kéo theo không biết bao nhiêu là rắc rối cho sức khoẻ. Anh phải nằm ba nhà thương khác nhau trong vòng ròng rã trọn một năm trời và mạng sống treo lơ lửng trên sợi chỉ. Con liền tha thiết dâng lên Đức Mẹ Mân Côi Pompei lời khẩn nài, xin Đức Mẹ MARIA cầu bầu cùng THIÊN CHÚA cho anh con được khỏi bệnh.

Vào một đêm đang ngủ con nằm mơ thấy mình đứng trước bức ảnh Đức Mẹ Mân Côi Pompei. Với trọn lòng tin tưởng con thân thưa với Đức Mẹ rằng: ”Xin Mẹ chữa anh con lành bệnh”. Đức Mẹ liền đưa dài cánh tay ra và trao cho con Tràng Chuỗi Mân Côi. Tỉnh dậy, con hiểu đây là một dấu chỉ.

Và đúng như thế. Chỉ 20 ngày sau giấc mơ trên đây, anh con xuất viện và được bình phục hoàn toàn. Ngay sau đó, anh con, chị dâu con và con, chúng con đến hành hương Đền Thánh Pompei để tạ ơn Đức Mẹ Mân Côi cũng như để dâng cúng một số tiền.

Kể từ ngày đó, gần 30 năm trôi qua, anh con luôn làm việc nơi xưởng và sức khoẻ tốt, không bị đau ốm gì trầm trọng lắm. Giờ đây, thêm một lần nữa, con lại dâng lời tri ân lên Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc. Bởi vì, cũng người anh này - vào năm 2009 - cứ cảm thấy yếu dần. Thì ra anh đang bị chứng ung thư máu tàn phá. Anh phải chữa trị nơi các trung tâm chuyên biệt về bệnh này. Tinh thần anh xuống thấp và tự đóng kín, không thèm nói với ai lời nào. Con liền nói với anh: ”Chúng ta cùng cầu xin cùng Đức Mẹ MARIA. Đức Mẹ không bao giờ bỏ rơi chúng ta!”

Và quả thật là như thế. Con lại nằm mơ thấy mình đứng trước Bức Ảnh Đức Mẹ Mân Côi Pompei, vừa cầu nguyện vừa khóc. Bỗng con trông thấy bức ảnh được chiếu sáng từ bên trong, một thứ ánh sáng rực rỡ. Rồi con thấy gương mặt Đức Mẹ vừa nhìn con vừa mỉm cười. Chỉ không đầy một năm sau, anh con được tuyên bố thoát hiểm nguy.

Sau đó, cứ 6 tháng một lần, anh con phải vào bệnh viện để kiểm tra sức khoẻ. Nhưng cứ mỗi lần như thế, kết quả luôn luôn khả quan.

Con đã hứa với Đức Mẹ là con sẽ đăng chứng từ tri ân của con trên nguyệt san ”Il Rosario e la Nuova Pompei” để phổ biến cho mọi người biết. Con muốn nói với tất cả những ai có lòng kính mến Đức Mẹ rằng:
- Trong cơn nguy khốn hãy tin tưởng chạy đến cùng Đức Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Chắc chắn Đức Mẹ không bỏ rơi bất cứ người nào!

Con xin cám ơn Mẹ, lạy Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc. Con xin cám ơn Mẹ nhân danh cá nhân con và nhân danh toàn thể gia đình con. Xin Mẹ tỏ lòng ưu ái tiếp tục bảo trợ và cứu giúp chúng con. Hầu như năm nào anh con cũng đến tạ ơn Đức Mẹ Mân Côi nơi Đền Thánh Pompei. Phần con, kể từ năm 1980 đến nay, ngày nào con cũng lần trọn chuỗi Mân Côi để tỏ lòng tri ân thảo mến đối với Đức Mẹ.
Ký tên: Concetta (Pescara, Trung Ý)

... Con là độc giả trung thành của nguyệt san nhưng nhất là một người con rất yêu mến Đức Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi Pompei. Con xin cám ơn Đức Mẹ đã ban cho con ơn thật lớn lao khi làm cho con gái con ra khỏi cơn hôn mê mà đáng lý phải chịu những hậu quả vô cùng trầm trọng. Nhờ ơn Đức Mẹ thương, giờ đây sức khoẻ con gái con khá hơn. Con hy vọng nơi lời cầu nguyện của quí vị dành cho con gái con và cho con. Con xin tạ ơn Đức Mẹ đã lắng nghe lời con cầu xin trong cơn gian nan khốn khó. Con ước ao chứng từ tri ân của con được công bố cho nhiều người biết. Cùng với lá thư con xin gởi kèm một số tiền dâng cúng để cảm tạ vì ơn lành đã nhận được.
Ký tên: Rosalia Latino (Bisaquino, Palermo (Nam Ý).

... Chúng con viết thư này để tạ ơn Đức Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi Pompei vì đã nhậm lời chúng con cầu xin. Tháng 8 năm 2010, một người bạn của chúng con, từ nhiều năm qua mắc chứng nghiện rượu, bị lâm trọng bệnh với hai lần bị đứng tim, gần như không thể nào sống sót. Các bác sĩ cố gắng chạy chữa để cứu sống, nhưng không thành công và họ cho rằng nạn nhân chỉ có thể sống tối đa một giờ. Chúng con đã tin tưởng tha thiết cầu nguyện cùng Đức Mẹ Mân Côi Pompei. Và Đức Mẹ đã ưu ái ban cho người bạn chúng con ơn thoát chết. Với trọn lòng tri ân, chúng con xin dâng lời tạ ơn Đức Mẹ MARIA dấu yêu rất thánh của chúng con.
Ký tên: Annalisa và Maria Mancini, Sava, Taranto (Nam Ý).


(”Il Rosario e la Nuova Pompei”, Anno 128 - N.5 - Maggio 2012, trang 42-43)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Thứ Năm, 30 tháng 8, 2012

Vừa mang đèn, vừa mang dầu (31.8.2012 – Thứ sáu Tuần 21 Thường niên)


Vừa mang đèn, vừa mang dầu 
Lời Chúa: Mt 25, 1-13
Một hôm, Ðức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Nước Trời cũng giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!” Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn”. Ðang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!” Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.”
Suy nim:
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.
Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.
Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Ðiện Biên Phủ,
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ,
lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.
Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ,
như chú rể đến lúc nửa đêm.
Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan,
hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.
Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.
Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.
Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.
Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới.
Nhưng muộn quá!
“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm,
khiến đèn của mình hết dầu.
Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan,
vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.
Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng,
không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ!
Ðèn cần phẳi sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.
Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ!
Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ!
Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.
Ðòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại,
có những người đèn đã hết dầu từ lâu...
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung,
của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày...
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ...
Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa,
nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế.
Chẳng ai biết giờ chết của mình.
Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu,
trong biến cố nào, nơi con người nào.
Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức,
khi nhận ra mình đã mê muội.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Sống trung thành với Tin Mừng là tử đạo mỗi ngày


Cuộc sống kitô đòi hỏi sự ”tử đạo” của lòng trung thành hằng ngày với Tin Mừng, nghĩa là lòng can đảm để cho Chúa Kitô lớn lên trong chúng ta và để chính Người hướng dẫn tư tưởng và các hành động của chúng ta.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với khoảng 5.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại Castel Gandolfo sáng thứ tư 29-8-2012. Trước hết Đức Thánh Cha đã ban huấn dụ cho 3.000 tín hữu tụ tập tại quảng trường trước nhà nghỉ mát, sau đó ngài chào 2.000 trẻ em giúp lễ Pháp ở trong sân nhà nghỉ mát. Hiện diện trong buổi tiếp kiến có 20 Giám Muc bạn của Phong trào Tổ Ấm, 5 Giám Mục Pháp hướng dẫn các trẻ em giúp lễ hành hương Roma, và Đức Tổng Giám Mục Piero Parolin, Sứ Thần Tòa Thánh tại Venezuela.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nhắc tới lễ thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, mà Giáo Hội cử hành ngày 29 tháng 8 hôm qua. Trong lịch phụng vụ Roma thánh nhân là vị thánh duy nhất có sinh nhật được mừng kính ngày 24 tháng 6. Đức Thánh Cha nói về nguốn gốc lễ này như sau:

Ngày lễ nhở hôm nay bắt nguồn từ việc dâng kính một hầm nhà thờ tại Sebaste ở Samaria, nơi thủ cấp thánh Gioan Tẩy Giả đã được tôn kính vào giữa thế kỷ thứ IV. Việc tôn sùng sau đó lan tới Giêrusalem, trong các Giáo Hội Đông Phương và Roma, với tước hiệu lễ thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu. Trong Tử đạo thư Roma người ta cũng nói tới việc tìm ra thánh tích của thánh nhân được mang về nhà thờ thánh Silvestro tại Campo Marzo ở Roma.

Các quy chiếu lịch sử nho nhỏ này giúp chúng ta hiểu việc tôn kính thánh Gioan Tẫy Giả cổ xưa và sâu xa chừng nào. Trong các Phúc Âm nổi bật lên vai trò của thánh nhân trong việc quy chiếu về Chúa Giêsu. Một cách đặc biệt thánh Luca thuật lại việc sinh ra, cuộc sống trong sa mạc, việc rao giảng của thánh nhân, và trong tin Mừng hôm nay thánh sử Mạccô nói về cài chết thê thảm của người.

Thánh Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng dưới thời hoàng đế Tiberio vào năm 27-28 sau Chúa Kitô; và lời mời gọi rõ ràng, mà thánh nhân hướng tới dân chúng chạy tới nghe người, là lời mời gọi dọn đường để tiếp đón Chúa, uốn thắng các con lộ cong queo của cuộc sống, bằng cách triệt để hoán cải con tim (x. Lc 3, 4). Tuy nhiên, thánh nhân không chỉ giới hạn trong việc rao giảng sự sám hối, hoán cải, mà còn nhận biết Đức Giêsu là Chiên Con của Thiên Chúa đến xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Và với lòng khiếm nhường sâu xa người chỉ cho thấy Đức Giêsu là Đấng thiên sai thật, người tự xóa mình đi để cho Chúa Kitô có thể lớn lên, được lắng nghe và đi theo. Như là cử chỉ cuối cùng thánh Gioan Tẩy Giả lấy máu mình làm chứng cho lòng trung thành với các giới răn của Thiên Chúa, mà không nhượng bộ hay tháo lui, bằng cách chu toàn cho tới cùng sứ mệnh của mình. Trong các bài giảng thánh Beda, một đan sĩ thuộc thế kỷ thứ IX, đã nói như sau: ”Thánh Gioan hiến mạng sống mình cho Chúa Kitô, cả khi người không bị ra lệnh chối bỏ Chúa Giêsu Kitô, nhưng chỉ đừng nói lên sự thật. Và người đã không im lặng, vì thế đã chết cho Chúa Kitô là chân lý” (Om. 23: CCL 122,354). Chính tình yêu đối với sự thật, không hạ mình xuống các giàn xếp lằt léo với các kẻ quyền thế và khộng sợ hãi nói các lời mạnh mẽ đối với những ai đã lạc xa đường lối của Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Bây giờ chúng ta hãy xem gương mặt vĩ đại này, sức mạnh này trong cuộc khổ nạn và sự kháng cự các kẻ cường quyền. Chúng hãy hỏi từ đâu mà nảy sinh ra cuôc sống này, nội tâm mạnh mẽ, ngay thẳng và trung thực, xả thân hoàn toàn cho Thiên Chúa và để dọn đường cho Chúa Giêsu như thế? Câu trả lời thật đơn sơ: nó phát xuất từ tương quan với Thiên Chúa, từ lời cầu nguyện, là sợi chỉ dẫn đường toàn cuộc sống của thánh nhân. Thánh Gioan là ơn của Thiên Chúa, mà song thân của người là ông Dakharia và bà Elidabét đã khẩn nài lâu năm (x. Lc 1,13), một ơn lớn lao, không thể nghĩ tới trên bình diện nhân loại, bởi vi cả hai người đã cao tuổi và bà Elidabét hiếm muộn (x. Lc 1,7). Nhưng không có gì là không thể đối với Thiên Chúa (x. Lc 1,36).

Việc loan báo Gioan sinh ra xảy ra chính trong nơi cầu nguyện, trong đền thờ Giêrusalem, còn hơn thế nữa trong khi ông Dakharia được đặc ân vào trong nơi thánh thiện nhất của đền thờ để dâng hương cho Chúa (x. Lc 1,8-20). Cả việc sinh ra của thánh Gioan cũng được ghi dấu bởi lời cầu nguyện: đó là thánh thi của niềm vui, của lời tụng và tạ ơn, mà ông Dakhara đã cất lên cho Chúa, và chúng ta đọc lại mỗi ngày trong Kinh Sáng, đó là bài ”Benedictus” chúc tụng hành động của Thiên Chúa trong lịch sử và nói tiên tri về sứ mệnh của Gioan con ông là đi trước Con Thiên Chúa và dọn đường cho Người (x. Lc 1,67-79).

Đức Thánh Cha định nghĩa cuộc sống của thánh Gioan Tẩy Giả như sau: Toàn cuộc sống Vị Tiền Hô của Chúa Giêsu được dưỡng nuôi bởi tương quan với Thiên Chúa, đặc biệt trong thời gian sống trong các vùng sa mạc (x. Lc 1,80), là nơi của thử thách, nhưng cũng là nơi trong đó con người cảm thấy sự nghèo nàn của mình, bởi vì thiếu các yểm trợ và các an ninh vật chất; và con người hiểu rằng điểm quy chiếu duy nhất vững vàng là chính Thiên Chúa. Nhưng thánh Gioan Tẩy Gỉa không chỉ là con người của cầu nguyện, mà cũng là một vị hướng đạo trong tương quan với Thiên Chúa nữa. Khi kể lại lời Kinh Lậy Cha mà Chúa Giêsu dậy cho các môn đệ, thánh sử Luca ghi nhận lời các môn đệ xin như thế này: ”Lậy Chúa, xin dậy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dậy các môn đệ của ông” (x. Lc 11,1).

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến, cử hành cuộc tử đạo của thánh Gioan Tẩy Giả cũng nhắc nhớ cho chúng ta, là các kitô của thời đại ngày nay, rằng không thể xuống nước giàn xếp với tình yêu đối với Chúa Kitô, đối với Lời Người và với Chân Lý. Để nói rằng cuộc sống kitô đòi hỏi sự ”tử đạo” của lòng trung thành hằng ngày với Tin Mừng, đòi hỏi lòng can đảm, nghĩa là để cho Chúa Kitô lớn lên trong chúng ta và chính Người hướng dẫn tư tưởng và các hành động của chúng ta. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra trong cuộc sống chúng ta, nếu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa vững chắc. Cầu nguyện không phải là mất thời giờ, cũng không phải là ăn cắp không gian của các hoạt động, kể cả các hoạt động tông đồ, nhưng trái lại: chỉ khi chúng ta có một cuộc sống cầu nguyện trung thành, liên lỉ, tin cậy, thì chính Chúa mới sẽ ban cho chúng ta khả năng và sức mạnh để sống một cách hạnh phúc và bình an, thắng vượt các khó khăn và làm chứng cho Chúa với lòng can đảm. Xin thánh Gioan Tẫy Giả bầu cử cho chúng ta, để chúng ta biết luôn duy trì quyền ưu tiên của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau trước khi cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Tiếp đến ngài đã vào trong sân nhà nghỉ mát để chào 2.000 trẻ em giúp lễ được 5 Giám Mục và nhiều linh mục hướng dẫn hành hương Roma. Ngài nói: Các con thân mến, việc phục vụ mà các con trung thành chu toàn cho phép các con gần gũi Chúa Giêsu Kitô trong Thánh Thể một cách đặc biệt. Các con có đặc ân vĩ đại được ở gần bàn thờ, được ở gần Chúa. Hãy ý thức về tầm quan trọng của việc phục vụ ấy đối với Giáo Hội và với chính các con. Ước chi nó là dịp làm lớn lên một tình bạn, một tương quan cá nhân với Chúa Giêsu. Đừng sợ hãi hăng say thông truyền chung quanh các con niềm vui mà các con nhận được từ sự hiện diện của Chúa. Ước chi toàn cuộc sống của các con rạng ngời hạnh phúc của sự gần gũi với Chúa Giêsu. Và nếu một ngày nào đó các con cảm thấy tiếng Chúa gọi theo Người trên con đường của chức linh mục hay đời tu sĩ, thì hãy quảng đại đáp trả lại lời mời gọi đó. Cha chúc các con một cuộc hành hương tốt lành nơi mộ của hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.

Linh Tiến Khải


Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

Thư Mục Vụ Đức Giám Mục Giáo Phận tháng 09/2012

THƯ MỤC VỤ
Đức Giám Mục Giáo Phận
Tháng 9 năm 2012
 
GIA ĐÌNH GIÁO PHẬN CỘNG TÁC
VỚI CHỦNG VIỆN TRONG VIỆC
ĐÀO TẠO LINH MỤC TƯƠNG LAI
 
          Anh chị em thân mến,
          Hiệp thông với Đức Cha Gioan Baotixita, tôi gửi đến toàn thể gia đình giáo phận lời chào thân ái, cùng với ước nguyện mọi người chúng ta luôn sống trong yêu thương bình an và hiệp nhất. Trong tháng 9, giáo phận như gia đình của Thiên Chúa, hướng về các chủng sinh yêu quí, đang bắt đầu một niên học mới trong giai đoạn đào tạo tại chủng viện Thánh Quí Cần Thơ. Vì thế, thư mục vụ tháng 9 có tựa đề “Gia Đình Giáo Phận Cộng tác với Chủng Viện Trong Việc Đào Tạo Linh Mục Tương Lai”.
 
          1. Đường hướng đào tạo chủng sinh tại giáo phận
          Niên khóa mới của chủng viện Thánh Quí 2012-2013 sẽ chính thức khai giảng ngày 21/9/2012. Giáo phận ý thức rằng chính Chúa Thánh Thần là nhà Đào Tạo các ứng sinh linh mục (PDV 65). Giáo phận cũng tin tưởng và sở cậy chủng viện, “là nơi đào tạo tối ưu” (PDV 60) để giúp các chủng sinh tự đào tạo chính mình. Tuy nhiên, giáo phận cũng luôn ý thức về trách nhiệm của mình là cộng tác với Chúa Thánh Thần và với chủng viện trong chương trình đào tạo. Chính vì thế, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và trong tinh thần đồng trách nhiệm, giáo phận sẽ cộng tác tích cực với chủng viện trong cả 3 giai đoạn là đào tạo mở đường (dự tu), đào tạo khai tâm (chủng sinh) và đào tạo trường kỳ (giáo sĩ). Trong sự cộng tác này, đường hướng đào tạo mà giáo phận chủ yếu nhắm đến là giúp các ứng sinh linh mục phát huy Cảm Thức Giáo Hội”, để qua từng giai đoạn đào tạo, ngày càng ý thức hơn “thuộc về giáo phận”, là một trong những sắc thái làm nên căn tính của linh mục triều.
 
          2. Thách đố của việc đào tạo
          Tuy nhiên, giáo phận cũng cần ý thức về những thách đố thực tế mà giáo phận phải đối diện trong việc đào tạo các ứng sinh linh mục về “cảm thức Giáo Hội”. Có ba (03) thách đố cụ thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc đào tạo các chủng sinh tại giáo phận.
          Thách đố thứ nhất là do khác biệt về nguồn gốc cùng với môi trường sống của mình, các chủng sinh có những khác biệt nhất định. Cụ thể là 2 nguyên gốc làm nên sự khác biệt điển hình trong tập thể chủng sinh Long Xuyên; đó là nguyên gốc từ địa phương miền đồng bằng sông Cửu Long và nguyên gốc từ miền Bắc và miền Trung di cư qua nhiều thời kỳ đến định cư và lập nghiệp tại phần đất của giáo phận. Ngoài ra, từ một bối cảnh xã hội cụ thể và do tình hình địa lý của giáo phận, các chủng sinh có thể biết nhiều về cộng đoàn trong địa phương của mình, mà không có nhiều cơ hội tìm hiểu các cộng đoàn Kitô hữu khác với những cách sống đạo và truyền đạo đa dạng tại các địa phương khác trong giáo phận.
          Thách đố thứ hai là sự khác biệt giữa thế hệ linh mục đàn anh đang thi hành tác vụ linh mục với thế hệ chủng sinh đang được đào tạo để trở thành linh mục. Rõ ràng là có những khác biệt về tuổi tác, về tính tình, về những trải nghiệm cụ thể qua những giai đoạn lịch sử của xã hội và Giáo Hội và về tiến trình đào tạo ơn gọi linh mục, trong những giai đoạn khác nhau, tại môi trường chủng viện khác nhau; tất cả đã tạo nên những khác biệt về cách sống, cách suy nghĩ, cách ứng xử…
          Thách đố thứ ba là vì giáo phận còn là Giáo Hội lữ hành, nên có những điểm sáng mà vẫn còn đó những bóng tối. Vì thế, thật là dễ hiểu cho những tâm trạng chao đảo có thể xảy ra nơi các chủng sinh; vì tại chủng viện, các chủng sinh được giới thiệu những lý tưởng với những vẻ đẹp thánh thiện của Hội Thánh, của đời sống và tác vụ linh mục, trong khi hiện diện tại giáo phận trong các kỳ nghỉ hè và các dịp thực tập mục vụ, họ phải đối diện với những con người, các sinh hoạt và các tổ chức có nhiều giới hạn, thậm chí là gương xấu đang xảy ra trong các cộng đoàn Kitô hữu, cách riêng là những yếu đuối từ chính các linh mục cha anh. Những thách đố trên và nhiều thách đố khác làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc đào tạo các chủng sinh về ý thức “thuộc về giáo phận”.
 
          3. Đường hướng Đào tạo tu đức
          Để giúp các chủng sinh đối diện với những thách đố trên một cách tích cực, giáo phận cần giúp các chủng sinh biết ngoan ngoãn để Chúa Thánh Thần hướng dẫn vào một tương quan thân tình và cá vị với Chúa Kitô. Đây là cách thế Chúa Kitô đào tạo các môn đệ của Ngài, cụ thể là tông đồ Phêrô (Mt 16, 13-23). Thật vậy, chính trong tương quan thân tình với Chúa Kitô, người chủng sinh với những sắc thái độc đáo của riêng mình, sẽ có thể trả lời cho câu hỏi “Còn con, con bảo Thầy là ai?” Trả lời câu hỏi này, người chủng sinh tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô từ một cảm nghiệm thiêng liêng. Từ cảm nghiệm riêng tư này, người chủng sinh được mạc khải cho biết mình là ai trong tương quan với Chúa Kitô để khám phá ra sứ mạng của mình trong tương quan với cộng đoàn: “Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời”. Từ sứ mạng bởi Chúa Kitô, người chủng sinh sẵn sàng đón nhận cách sống của người tông đồ, là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, cho dù đó là những chọn lựa ngược lại với ý muốn của bản thân và khác biệt với tập thể: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ… rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Trong đường hướng tu đức này, chính “trong và nhờ” những khác biệt trong giáo phận, người chủng sinh được đào tạo và tự đào tạo ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô theo cách thế độc đáo của riêng mình, mà đồng thời vẫn tiếp nhận những khác biệt trong giáo phận để đi vào sự hiệp thông trong đa dạng và phong phú. Hơn nữa, chính “trong và nhờ” những giới hạn và yếu đuối đang hiện diện trong giáo phận lữ hành, người chủng sinh ngày càng trở nên trưởng thành trong việc phân định ý muốn của Thiên Chúa cho riêng mình, và can đảm tiến bước bằng chính hy tế đời mình. Đây chính là cách sống mầu nhiệm nhập thể, nhập thế và vượt qua của Chúa Kitô.
 
          4. Đề xuất giải pháp mục vụ
          Trong suốt giai đoạn đào tạo tại đại chủng viện, các chủng sinh hiện diện phần lớn thời gian trong môi trường chủng viện, có các cha giáo đặc tuyển tháp tùng, theo một chương trình sinh hoạt và tổ chức hữu hiệu.
          Vì thế, giáo phận cần tận dụng những dịp các chủng sinh trở về giáo phận, như kỳ nghỉ, thực tập mục vụ hè, năm thử, và năm mục vụ, để quan tâm và tháp tùng các chủng sinh theo đường hướng đào tạo của giáo phận. Quả vậy, đây là cơ hội mà giáo phận, qua UB linh mục chủng sinh, có thể tạo điều kiện cho các chủng sinh hiện diện trong giáo phận để tiếp cận và hiểu biết giáo phận với lịch sử, truyền thống, sinh hoạt và cơ cấu tổ chức. Đây cũng là cơ hội thuận lợi để các vị hữu trách tổ chức cho các chủng sinh của mình hiện diện, sống và hoạt động giữa những cộng đoàn Kitô hữu khác nhau, nhờ đó có những cảm nghiệm về sự phong phú và đa dạng của những khác biệt trong giáo phận. Đây cũng phải là cơ hội để linh mục đoàn tổ chức cho các chủng sinh chung sống, chia sẻ và cộng tác với các linh mục thế hệ cha anh trong tinh thần tham gia và hiệp thông vì sứ vụ trong tinh thần đồng trách nhiệm, với ý thức mình đang từng bước thuộc về linh mục đoàn của giáo phận. Ngoài ra, qua trung gian của các linh mục liên hệ với các chủng sinh (cha xứ, cha bảo trợ, cha tháp tùng…), giáo phận biết trân trọng lắng nghe và vui mừng đón nhận những đóng góp quảng đại và nhiệt tình của các chủng sinh cho đời sống và sứ mạng của giáo phận tại phần đất Long Xuyên. Nhờ đó, các chủng sinh ngày càng ý thức “mình là một thành viên thuộc về gia đình giáo phận”.
          Qua thư mục vụ này, Giáo phận xin được bày tỏ lòng tri ân đối với các bậc tiền bối trong hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đã hình thành nên một truyền thống đào tạo linh mục tương lai như gia sản trân quí mà giáo phận đang được thừa hưởng. Đặc biệt, giáo phận tỏ lòng tri ân chủng viện Thánh Quí, các Đức Cha và các cha giáo đã hết lòng dấn thân cho công cuộc đào tạo linh mục cho giáo phận Long Xuyên. Thật vậy, sau 24 năm hoạt động, chủng viện thánh Quí đã đào tạo cho giáo phận Long Xuyên 129 linh mục làm thành linh mục đoàn đông đảo với hai giám mục và 260 linh mục. Xin Chúa trả công bội hậu cho các vị ân nhân.
          Riêng với 92 chủng sinh yêu quí của cha, chúng con là niềm vui mừng và hy vọng của giáo phận, đặc biệt của chính cha. Giáo phận tự hào vì sự hiện diện của chúng con trong đời sống giáo phận. Như biểu tượng tháp chuông của nhà thờ Chánh Tòa, chúng con đang được đào tạo và được mời gọi hãy tích cực tự đào tạo, trở thành những cánh tay vươn cao trên nền trời của phần đất Long Xuyên để giới thiệu Chúa Kitô cho anh em đồng đạo, đồng bào và đồng loại. Còn cha, trong nguyện cầu, bàn tay của cha đang dâng từng người chúng con cho Trái Tim Chúa Giêsu, xin Người gìn giữ, thánh hóa và thánh hiến chúng con trong tình yêu của Người. Cha ban phép lành của Chúa cho chúng con.
 
                    + GIUSE TRẦN XUÂN TIẾU
          GIÁM MỤC GIÁO PHẬN LONG XUYÊN
 

Đại kết, một chủ đề trung tâm của Công đồng Vatican II


Đức hồng y Kurt Koch

Đại kết, một chủ đề trung tâm của Công đồng Vatican II
WHĐ (29.08.2012) / ZENIT – “Đại kết là một ‘chủ đề trung tâm’ của Công đồng Vatican II”, Đức hồng y Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh cổ vũ việc Hiệp nhất các Kitô hữu đã tuyên bố như trên trong một cuộc trao đổi mới đây được thuật lại trên tờ L’Osservatore Romano ngày 03-08-2012, ấn bản tiếng Ý. ĐHY nhắc nhở là các văn kiện của Công đồng có tính quy tắc, kể cả sắc lệnh về việc Đại kết.
Đức hồng y cũng cho biết: Hội đồng Tòa Thánh cổ vũ việc Hiệp nhất các Kitô hữu cùng với Liên hiệp các Giáo hội Luther thế giới đang chuẩn bị một bản tuyên bố chung nhân dịp kỷ niệm năm trăm năm cuộc Cải cách vào năm 2017 tới đây. Các Hội đồng Giám mục địa phương cũng sẽ có các hoạt động riêng nhân dịp này. 
Đức hồng y khẳng định: Đại kết “không phải là một chủ đề thứ yếu, nhưng là chủ đề trung tâm của Công đồng” và do đó, cũng là của Giáo hội ngày nay.
Ngài nhắc lại rằng các nguyên tắc trong sắc lệnh về Đại kết, Unitatis redintegratio, đã được “rút ra từ Hiến chế tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium”. Đàng khác, “chính Đức giáo hoàng Phaolô VI cũng đã nhấn mạnh về điểm này khi công bố sắc lệnh”. Cũng vậy, tuyên ngôn về quan hệ của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate, đặc biệt với Do Thái giáo, cũng có “các cơ sở trong Hiến chế tín lý về Giáo hội”.
Nhắc tới các ý kiến tỏ ra nghi ngờ về tính cách bắt buộc của các bản văn của Vatican II, Đức hồng y Kurt Koch lưu ý: “Vatican II đã thông qua bốn hiến chế, chín sắc lệnh và ba tuyên ngôn” trong khi “Công đồng Tridentino (1545-1563) đã chỉ công bố các sắc lệnh mà không có một hiến chế nào”.
Tuy nhiên, ngài nhận xét, không ai dám khẳng định rằng “Công đồng Tridentino thuộc hàng thứ yếu”. Cuối cùng, Đức hồng y kết luận: Bởi vậy, chúng ta có thể nhìn nhận có các sự khác biệt giữa các loại văn kiện trên bình diện hình thức, nhưng “chúng ta không thể thực sự chấp nhận là có các khác biệt trong tính cách bắt buộc của nội dung các văn kiện này”.
Đức hồng y Kurt Koch khẳng định: “Văn kiện khác nhau, nhưng chỉ có một tinh thần duy nhất”.
(Zenit, 27-08-2012)
 
Mai Tâm

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 chia buồn với các nạn nhân vụ nổ nhà máy lọc dầu ở Amuay bên Venezuela.

Đức Thánh Cha chia buồn với các nạn nhân vụ nổ nhà máy lọc dầu tại Venezuela



Trong điện văn nhân danh ĐTC gửi đến Đức Cha Diego Rafael Padrón Sánchez, TGM giáo phận Cumaná, kiêm Chủ tịch HĐGM Venezuela, hôm 28-8-2012, ĐHY Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cho biết ĐTC rất đau buồn khi hay tin vụ nổ nhà máy lọc dầu ở Amuay, bang Falcón, làm cho nhiều người chết và bị thương, thiệt lại lớn lao về vật chất. ”Ngài cầu xin Chúa ban ơn an nghỉ đời đời cho những người thiệt mạng, đồng thời bày tỏ sự gần gũi những người bị thương cũng như tất cả những người bị thiệt hại và thân nhân của họ.

”Đồng thời ĐTC cũng khuyến khích tất cả cộng đồng dân sự, trong tinh thần bác ái và liên đới Kitô, trợ giúp cần thiết cho những người bị mất gia cư và tài sản”.

Nhà máy lọc dầu ở mạn đông bắc Venezuela bị nổ hôm thứ bẩy, 25-8-2012 làm cho hơn 40 người thiệt mạng, 6 người bị mất tích, 80 người bị thương (SD 28-8-2012)


G. Trần Đức Anh OP

Ðức Hồng Y Phaolô Ðan Quốc Tỷ, cựu thừa sai Dòng Tên tại Việt Nam, qua đời.

Ðức Hồng Y Phaolô Ðan Quốc Tỷ
cựu thừa sai Dòng Tên tại Việt Nam, qua đời


Cao Hùng, Taiwan (SD 22, 23-8-2012) - Ðức Hồng Y Phaolô Ðan Quốc Tỷ (Paul Shan Kuo-Hsi), dòng Tên, nguyên Giám Mục giáo phận Cao Hùng bên Ðài Loan, cựu thừa sai Dòng Tên tại Việt Nam, đã qua đời lúc 18 giờ 42 phút ngày 22 tháng 8 năm 2012 vì bệnh ung thư phổi, hưởng thọ 89 tuổi.

Ðức Hồng Y Phaolô Ðan Quốc Tỷ (Paul Shan Kuo-Hsi), dòng Tên, nguyên chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Ðài Loan.

Ðức Hồng Y Ðan Quốc Tỷ sinh năm 1923 tại tỉnh Phúc Dương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, gia nhập dòng Tên năm 1946 tại Bắc Kinh, theo học triết và thần học tại Baguio, Philippines và thụ phong Linh Mục năm 1955. Sau đó, ngài học tại Ðại học giáo hoàng Gregoriana ở Roma và đậu tiến sĩ thần học linh đạo tại đây năm 1961. Tiếp đến, Cha Ðan Quốc Tỷ được gửi đang Việt Nam làm phụ tá giáo tập tại Tập viện Dòng Tên ở Thủ Ðức từ năm 1961 đến 1963.
Sau khi khấn trọng với 4 lời khấn của dòng vào năm 1963, Cha Ðan Quốc Tỷ được bổ nhiệm làm giáo tập tại thành phố Chương Hóa (Changhua), Ðài Loan, từ năm 1963 đến 1970.
Tháng 11 năm 1979, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục giáo phận Hoa Liên, Ðài Loan. Ngài cũng được bầu làm Chủ tịch Văn phòng đối thoại liên tôn của liên Hội Ðồng Giám Mục Á châu (1983-1985), tiếp đến làm Chủ tịch Văn Phòng truyền thông xã hội (1985-1991) của các Giám Mục Á châu. Trong thời kỳ đó ngài được bầu làm Chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Ðài Loan năm 1987.
Tháng 3 năm 1991, Ðức Cha Ðan Quốc Tỷ được bổ nhiệm làm Giám Mục giáo phận Cao Hùng, và trong dịp Thượng Hội Ðồng Giám Mục Á châu năm 1998, ngài được Ðức Thánh Cha chỉ định làm Tổng tường trình viên của Công nghị Giám Mục này. Trước đó ngài được thăng Hồng y ngày 21 tháng 2 năm 1998. Ðức Hồng Y Ðan Quốc Tỷ về hưu từ tháng giêng năm 2006.
Ðức Hồng Y đã dịch hai cuốn sách quan trọng ra tiếng Hoa: cuốn "Làm thế nào là một nhà lãnh đạo" (Come essere una guida) và "Dấn thân và Lãnh đạo" (Impegno e Leadership). Cả hai cuốn trở thành những sách bán chạy nhất, cuốn thứ hai được dùng để đào tạo các vị lãnh đạo trong chính quyền.
Ðược biết, thánh lễ an táng của Ðức cố Hồng Y Phaolô Ðan Quốc Tỷ sẽ được cử hành tại Hội Trường của Trường Trung Học Ðaminh, Thành Phố Cao Hùng, Ðài loan, vào lúc 10 giờ sáng ngày 1 tháng 9 năm 2012.
Hôm 23 tháng 8 năm 2012, Ðức Thánh Cha Biển Ðức 16 đã gửi điện văn đến Ðức Cha Phêrô Lưu Chấn Trung (Liu Cheng Chung) đương kim Giám Mục giáo phận Cao Hùng, để chia buồn với toàn thể giáo phận.
Trong điện văn, Ngài viết: "Tôi đau buồn sâu xa khi hay tin qua đời của Ðức Hồng Y Phaolô Ðan Quốc Tỷ, nguyên Giám Mục Cao Hùng. Trong niềm biết ơn Thiên Chúa Tối Cao, tôi nhớ đến những năm tận tụy phục vụ của Ðức Cố Hồng Y, trước tiên như Giám Mục giáo phận Hoa Liên, và trong tư cách là Chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục miền của Trung Hoa. Tôi chân thành chia buồn với Ðức Cha, hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân các giáo phận Hoa Liên, Cao Hùng và toàn thể Giáo hội tại Ðài Loan, và đoan hứa cầu nguyện cho Ðức Cố Hồng Y. Cùng với Ðức Cha và tất cả những người đang thương khóc Người, kể cả các anh em tu sĩ Dòng Tên, tôi phó thác linh hồn tư tế của Người cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa là Người Cha yêu thương của chúng ta".
Với sự qua đi của Ðức Hồng Y, Hồng Y đoàn còn 207 vị, trong số này có 118 Hồng y cử tri, dưới 80 tuổi (SD 22,23-8-2012)

G. Trần Ðức Anh, OP
(Radio Vatican)

Thứ Ba, 28 tháng 8, 2012

Tấm Khăn Liệm Thánh thành Torino

Tấm Khăn Liệm Thánh thành Torino (3/3)





Phỏng vấn giáo sư Bruno Barberis

Vào hạ tuần tháng 5 năm nay giáo sư Bruno Barberis, chuyên viên nghiên cứu Tấm khăn liệm thành Torino, đã thuyết trình các bài cuối cùng trong chương trình khóa học lấy bằng chuyên môn về khoa nghiên cứu Tấm Khăn Liệm, do đại học giáo hoàng Nữ Vương các Tông Đồ ở Roma tổ chức.

Giáo sư Barberis đã bắt đầu nghiên cứu Tấm Khăn Liệm thành Torino năm 1975, và từ năm 1977 giáo sư là thành viên ”Huynh đoàn Tấm Khăn Liệm Rất Thánh thành Torino” và của ”Trung tâm quốc tế Khoa Tấm Khăn Liệm học”, là cơ quan tổ chức các cuộc nghiên cứu và tìm hiểu Tấm Khăm Liệm. Giáo sư là tác giả của hơn 20 cuốn sách và hơn 150 bài viết về Tấm Khăn Liệm trên bình diện khoa hoc cũng như trên bình diện phổ biến kiến thức đại đồng. Các bài nghiên cứu này được đăng trên các tạp chí khoa học và nhật báo Italia và quốc tế. Giáo sư cũng đã chủ tọa 2.000 buổi diễn thuyết về Tấm Khăn Liệm tại Itaia cũng như tại hải ngoại.

Tấm Khăn Liệm thành Torino dài 4 mét 41, rộng 1 mét 13, dầy khoảng 34 milimét, và nặng khoảng 2 kí 450 gram, được khâu trên một tấm khăn đệm khác. Năm 1898 Tấm Khăn Liệm được chụp hình lần đầu tiên, và trên bản âm người ta nhận ra hình một người đàn ông cao lớn, có râu tóc dài, mang các dấu vết của các ngược đãi và tra tấn, phù hợp với các trình thuật cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu thành Nagiarét. Đầu tóc râu trán và mặt bê bết máu, sống nũi bị đánh gẫy, tay chân bị đóng đanh, vết đinh đóng trên cổ tay phải và trên chân rất rõ. Toàn thân mình chằng chịt các vết roi đánh. Truyền thống kitô coi đó là tấm khăn đã được dùng liệm xác Đức Giêsu chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh.

Từ ”Sindone” phát xuất từ tiếng Hy Lạp ”sindon” là vải gai tốt. Nhưng từ này đã trở thành đồng nghĩa với khăn liệm xác Đức Giêsu. Tấm Khăn Liện đã được trưng bầy cho tín hữu kính viếng trong các năm 1978, 1998, 2000 và 2010 từ ngày 10 tháng 4 cho tới 23 tháng 5.

Lịch sử các Giáo Hội Đông Phương có nhắc tới tấm khăn ”Mandylion” có hình của Chúa Cứu Thế, hay ”Hình của tỉnh Edessa” vì ít nhất từ năm 544 nó được giữ tại Edessa, ngày nay là thành phố Urfa bên Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng vào năm 994 khi người Hồi đánh chiếm Edessa, các kitô hữu Bisantin chuyển tấm khăn có hình mặt Chúa Giêsu về Constantinopoli, và tấm khăn được giữ tại đây cho tới năm 1204, khi thàmh phố này bị Thập tự quân cướp phá và lấy đi rất nhiều thánh tích. Từ đó Tấm khăn Mandylion mất dấu vết.

Tài liệu lịch sử thuộc thế kỷ thứ X, do “Gregorio tổng Phó tế và là tường trình viên của Giáo Hội Constantinopoli” viết, kể lại biến cố tấm khăn Mandylion được mang tới Constantinopoli năm 944. Trong đó có nói tới ”các giọt máu rỉ ra từ cạnh sườn Chúa” (Cod. Vat. Gr. 511. fogli 143-150 v). Như thế, trên tấm khăn Mandylion không chỉ có hình mặt Chúa, mà còn có hình của toàn thân thể với vết máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu nữa.

Tài liệu thứ hai cũng thuộc thế kỷ thứ X thuộc Codex Vossianus latinus (Q 69) hiện được giữ trong thư viện của đại học Rijksunivedriteit tỉnh Leiden bên Hòa Lan, kể lại câu chuyện thuộc thế kỷ thứ VIII, phát xuất từ truyền thống Siriac, được địch ra tiếng Latinh bởi Ngự y trưởng thành Smirna, nói rõ rằng tấm khăn Mandylion không chỉ có hình mặt, mà có hình của toàn thân mình Chúa Kitô nữa. Các nguồn tại liêu cổ xưa nói tới tấm khăn ”tetradyplon” là gấp 4 hai lần, tức 8 lần, chỉ để cho thấy Mặt của Chúa Kitô mà thôi. Nhiều học giả cho rằng đó chính là Tấm Khăn Liệm Thánh thành Torino.

Vào thế kỷ thứ XIV không biết từ đâu Tấm Khăm Liệm lọt vào tay Hiệp Sĩ Geoffroy de Charny (1305-1356) và vợ là Jeanne de Vergy. Ngày 20 tháng 6 năm 1353 ông tặng Tấm Khăn Liệm cho các Kinh sĩ Lirey, và Tấm Khăn Liệm được trưng bầy lần đầu tiên năm 1357. Năm 1415 Marguerite de Charny, con cháu của Hiệp Sĩ Geoffroy đòi lại Tấm Khăn Liệm, rồi năm 1453 bán hay nhường cho các Quận Công nhà Savoia. Từ đó Tấm Khăn Liệm được giữ tại Chambéry. Ngày 4-12-1532 nhà nguyện thánh của Tấm Khăm Liệm Thánh bị cháy, khiến cho Tấm Khăn Liệm bị hư hại nhiều chỗ, vì lửa cháy nóng khiến cho chì của hòm đựng nhỏ xuống Khăn Thánh. Năm 1578 Tấm Khăn Liệm được mang về Torino, bắc Italia, theo lời yêu cầu của thánh Carlo Borromeo Tổng Giám Mục Milano, và được cất giữ ở đây từ đó đến nay. Vua Umberto II nhà Savoia trối lại gia tài cho Tòa Thánh Vaticăng, và Tòa Thánh giao cho Tổng Giám Mục Torino việc coi giữ Tấm Khăn Liệm Thánh.

Trong qúa khứ Giáo Hội công giáo đã không coi đó là tấm khăn thật liệm xác Chúa Giêsu. Năm 1389 Giám Mục thành Troyes gửi thư cho Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng tấm khăn chỉ coi là ”một bức vẽ rất tài tình, do tay người làm ra chứ không phải do phép lạ”. Năm 1390 Đức Giáo Hoàng Clemente VII công bố 4 tự sắc cho phép trưng bầy nhưng phải nói lớn tiếng rằng nó ”không phải là tấm khăn liệm thật của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô”. Năm 1506 Đức Giáo Hoàng Julio II cho phép công khai sùng kính Tấm Khăn Liệm với lễ và kinh thần vụ riêng. Ngày nay, tuy Giáo Hội không lên tiếng về vấn đề này, và để cho các nhà khoa học nhiệm vụ tìm hiểu các bằng chứng phò hay chống, nhưng cho phép sùng kính hình cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Nhiều Giáo Hoàng từ Đức Pio XI đến Đức Gioan Phaolô II đã bầy tỏ xác tín riêng về tính cách đích thực của Tấm Khăn Liệm Thánh.

Năm 2005 một nhóm 24 nhà nghiên cứu đã ký chung một tài liêu cung cấp nhiều tin tức và khẳng định rằng đã không có thí nghiệm nào thành công trong việc tái tạo lại tất cả các đặc thái của Tấm Khăn Liệm thành Torino.

Trong hai buổi phát lần trước chúng tôi đã gửi tới qúy vị và các bạn phần đầu và phần hai bài phỏng vấn, hôm nay xin gửi phần ba cuộc phỏng vấn giáo sư Barberis dành cho hãng thông tấn ZENIT ngày 8 tháng 6 năm nay.

Hỏi: Thưa giáo sư Barberis, hai kiểu tìm hiểu hình người in trên Tấm Khăn Lim thành Torino như giáo sư đã trình bầy có thực sự đối kháng với nhau đến như vậy không?

Đáp: Riêng cá nhân tôi, thì tôi cho rằng hai kiểu tìm hiểu Tấm Khăn Liệm không chỉ có thể hòa hợp với nhau, mà còn bổ túc cho nhau nữa. Chúng làm thành hai phần không thể thiếu của một sự trình bầy Tấm Khăn Liệm một cách đúng đắn, hữu hiệu và đầy đủ. Chúng rất có thể hiện hữu cùng nhau, miễn là tôn trọng các tầng lớp chuyên môn khác nhau, không tìm mọi cách trộn lẫn chúng và gò ép các kết luận mà không tôn trọng tính cách chuyên biệt của chúng. Về điểm này, để khỏi gây ra các hiểu lầm, cần phải nhắc nhớ rằng đức tin kitô không dựa trên và sẽ không bao giờ dựa trên Tấm Khăn Liệm. Có nhiều lần tôi đã bi các nhà báo và các phóng viên hỏi rằng đức tin của tôi sẽ ra sao, nếu người ta chứng minh được rằng Tấm Khăn Liệm thành Torino không phải là tấm khăm thật đã liệm xác Chúa Giêsu. Dĩ nhiên là tôi đã trả lời rằng sẽ không có gì thay đổi cả. Đức tin kitô dựa trên nhiều giả thiết khác, mà Tấm Khăm Liệm có thể là một yểm trợ có giá trị, nếu được coi như là một dụng cụ qúy báu, qua thứ ngôn ngữ của hình ảnh, nó góp phần vào việc suy tư về một điều nòng cốt quan trọng của đức tin: đó là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Đối với tất cả những ai đứng trước Tấm Khăm Liệm mà không có các ý niệm chế sẵn trước, và không có các thành kiến, thì việc trình bày đúng đắn cống hiến khả thể bước đi trên một lộ trình suy tư, giúp khám phá ra mầu nhiệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, được kể lại trong hình thái văn chương bởi các tác giả Phúc Âm. Lộ trình ấy cần được nâng đỡ bởi các xác nhận và các khám phá đến từ các cuộc nghiên cứu khoa học các dấu vết trên Tấm Khăn Liệm, cũng như từ suy tư cho phép đi xa hơn hình ảnh để tiếp nhận được sứ điệp cứu rỗi và ơn cứu độ, mà sự khổ đau của Chúa Kitô trao ban cho chúng ta trên con đường khổ nạn dài và đau đớn của Người. Vì thế Tấm Khăn Liệm tuyệt đối cần được nghiên cứu và hiểu biết theo cả hai kiểu tìm hiểu: kiểu tìm hiểu của khoa học và kiểu tìm hiểu của đức tin. Nếu không, sẽ không thể nào tiếp nhận và đào sâu được sứ điệp sâu xa của nó một cách tràn đầy.

Hỏi: Thưa giáo sư, vậy Tấm Khăn Liệm có thể là đi tượng của cuộc đối thoại đa tôn giáo hay không?

Đáp: Câu trả lời của tôi chắc chắn là có rồi. Không ai được ngạc nhiên trước sự kiện đề tài Tấm Khăn Liệm không chỉ lôi cuốn sự chú ý của các tín hữu thuộc nhiều Giáo Hội Kitô, mà nó cũng lôi cuốn người của các tôn giáo khác và cả những người tuyên bố mình là vô thần nữa. Lịch sử của cả các lần trưng bầy cuối cùng đầy các chứng từ chứng minh cho điều đó. Trong lần trưng bầy Tấm Khăn Liệm hồi năm 2010 tôi đã có dịp thảo luận lâu và một cách rất xây dựng với một nhóm tín hữu Hồi đến Torino để viếng Tấm Khăm Liệm. Đây đã là một kỷ niện không thể nào quên được. Cũng thế, các buổi thuyết trình của tôi tại Đan Mạch và Phần Lan hồi năm 1998 cho phép tôi có dịp đối thoại với các tín hữu Luther rất chú ý tới Tấm Khăn Liệm và sứ điệp của nó; hay các buổi thuyết trình tại Nam Hàn hồi năm 1999 cũng thế. Các kinh nghiệm này đã xác nhận một xác tín mà tôi có trong tim từ lâu. Nó nảy sinh từ nhiều sự kiện và các cuộc gặp gỡ mà người khác đã sống và kể lại cho tôi nghe. Xác tín rằng sứ điệp mà hình người trên Tấm Khăn Liệm chuyển tới thật sự đại đồng, và nó nói với tất cả mọi người nam nữ thuôc mọi chủng tộc và tôn giáo. Tôi không nghi ngờ sự kiện mỗi một tín hữu hành hương đi qua trước Tấm Khăm Liệm Thánh đều trở về nhà, được phong phú và trưởng thành hơn trên bình diên tinh thần, và sẽ khó mà quên đựơc hình ảnh của Tấm Khăn Liệm, một hình ảnh gây âu lo và nói một cách hùng hồn với con người của mọi thời đại, của mọi nền văn hóa, của mọi tôn giáo và chủng tộc. Đó là lý do tại sao tôi hoàn toàn đồng ý với bà Mechthild Flury Lemberg, tín hữu Luther người Thụy Sĩ, chuyên viên về các loại vải cổ xưa. Hồi năm 2002 bà là người đã khâu Tấm Khăn Liệm trên một lớp khăn đệm mới. Và trong một cuộc phỏng vấn bà đã định nghĩa Tấm Khăn Liệm ”là một dụng cụ qúy báu có thể tạo thuận tiện cho cuộc đối thoại đại kết”. Tấm Khăn Liệm có đó, ở trước mặt tất cả mọi người không trừ ai. Chúng ta có bổn phận không phung phí sứ điệp rất qúy báu của nó, bằng cách tận tâm làm sao để cho tất cả mọi người đều có thể trông thấy và hiểu biết nó một cách tường tận.

Hỏi: Tấm Khăn Lim đã đơc các Giáo Hoàng đnh nghĩa như là ”sự khiêu khích trí thông minh”, ”tấm gương của Phúc âm”, ”hình ảnh của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh”. Giáo sư, thì giáo sư định nghĩa Tấm Khăn Liệm là gì?

Đáp: Một trong các đặc tính chuyên biệt của Tấm Khăn Liệm là đã đựợc định nghĩa bởi hằng chục kiểu khác nhau. Đó là dấu chỉ của các khía cạnh đa diện qua đó có thể đọc bức hình duy nhất và không thể lập lại được này. Không có một định nghĩa ý nghĩa hơn các định nghĩa khác, bởi vì tất cả mọi định nghĩa đều góp phần định nghĩa một khía cạnh nền tảng. Trong biết bao nhiệu định nghĩa, định nghĩa mà tôi thích nhớ lại nhất là định nghĩa Tấm Khăn Liệm như là ”một hính ảnh không thể giải thích được”, vì nó nêu bật một sự kiện thực sự gây kinh ngạc: đó là tất cả các lý thuyết được đề nghị cho tới nay để thử giải thích kiểu tạo thành hình trên Tấm Khăn Liệm, dù tự chúng có hay mấy đi nữa, nhưng kết qủa đều luôn luôn thiếu sót, bởi vì chúng đã được kèm theo bởi các kiểm soát thực nghiệm minh nhiên trên các hình ảnh có được các đặc thái vật lý hóa học rất khác với các đặc thái có được từ Tấm Khăm Liệm. Vì thế tiến trình tạo thành hình trên Tấm Khăn Liệm vẫn chưa được biết tới, và để đạt tới việc nhận ra nó cần phải có các nghiên cứu trên bình diện lý thuyết cũng như trên bình diện thử nghiệm.

(ZENIT 10-6-2012) (3/3)

Linh Tiến Khải

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2012

Tòa Thánh Vatican liên kết với Apple phổ biến giáo huấn của Đức giáo hoàng



Tòa Thánh Vatican liên kết với Apple phổ biến giáo huấn của Đức giáo hoàng
WHĐ (25.08.2012) – Tòa Thánh Vatican và công ty điện toán Apple đã hợp tác phổ biến các bài giáo lý của Đức giáo hoàng theo định dạng kỹ thuật số để có thể truy cập bằng máy tính bảng và điện thoại thông minh.
Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI là một trong các nhà thần học được đọc nhiều nhất trên thế giới. Các sách của ngài được dịch ra hàng chục ngôn ngữ và nhiều cuốn trở thành sách bán chạy nhất. Hiện nay, giáo huấn của Đức giáo hoàng chuẩn bị vượt qua rào cản công nghệ cuối cùng để đến với người đọc trên máy tính bảng và điện thoại thông minh, nhờ liên minh biên tập giữa Nhà xuất bản Vatican (LEV) và công ty tin học khổng lồ Apple.
Cha Giuseppe Costa, giám đốc LEV cho biết: “Đây là một lựa chọn có chủ ý và mang tính chiến lược sớm hay muộn định dạng điện tử cũng trở nên tất yếu; chúng tôi đã thực hiện điều đó bằng cách liên kết với Apple. Công ty này giúp chúng tôi thực hiện các bài giáo lý của Đức Thánh Cha có minh họa”.
Một loạt bài giáo lý của Đức giáo hoàng với phần minh họa các kiệt tác nghệ thuật đã sẵn sàng được bán trên cửa hàng i-Tunes từ hai tháng nay. Tác phẩm “Con người cầu nguyện đã ra mắtcũng sẽ sớm có loạt bài “Cầu nguyện trong Tân Ước vốn đã được in thành sách.
Các sách của Đức giáo hoàng do LEV độc quyền sở hữu. Vị giáo hoàng hiện tại viết rất nhiều. Danh mục các tác phẩm của ngài gồm hơn 100 tựa đề, không kể tuyển tập các sứ điệp, bài giảng, diễn văn các bài phát biểu.
Do đó LEV sẽ có thể đánh giá mảng tác phẩm mới được chuyển thành sách điện tử với các sách được in của Đức giáo hoàng. Cha Costa khẳng định vẫn còn quá sớm để đưa ra lượng định sơ bộ về những kết quả của sáng kiến đầu tiên này. Tuy nhiên, nhà xuất bản Vatican sẽ tiếp tục phát triển các dự án khác cho thế giới ảo.
Các bài giáo lý soạn thảo xong đã thu hút được sự quan tâm trong lĩnh vực này bởi vì đó không chỉ là sách điện tử nhưng còn là những sản phẩm đa phương tiện công nghệ cao. Cha Costa giải thích: Hiệu ứng đồ họa và tranh icôn của sáng kiến ​​này là rất mạnh mẽ và được đánh giá cao bởi vì những bài giáo lý này là những cuốn sách đẹp vốn trải dài suốt toàn bộ lịch sử nghệ thuật”.
Nhưng không phải tất cả các sách điện tử của LEV đều đẹp như nhau, vì lý do chi phí và lợi nhuận. Hiện tại có 20 ấn phẩm điện tử đã thực hiện xong, đang chờ thẩm định của một tập đoàn truyền thông Công giáo.
Cha Costa nói: “Cũng những vấn đề kinh doanh về thiết kế và chúng ta cần cân nhắc khác biệt giữa chi phí và lợi nhuận: chúng tôi không phải là một quỹ nên chúng tôi cũng phải sống bằng biên tập và kinh doanh. Dù sao, công việc của chúng tôi đang tiến triển tốt đẹp”.
Chứng kiến sự hợp tác của LEV với Apple, n bán sách trực tuyến khổng lồ Amazon cũng tỏ ra quan tâm đến các tác phẩm của Đức giáo hoàng. Thế là LEV đã bước vào thế giới sách điện tửsẽ không lui bước.
 
Thái Hòa