Giá
Trị Vĩnh Viễn Của
Tuyên
Ngôn Nostra Aetate
Diễn
Văn Của Chủ Tịch Hội Ðồng Tòa Thánh
Cổ
Võ Sự Hiệp Nhất Các Kitô hữu
Trước
vấn đề này, Ðức Thánh Cha đã ủy thác cho tôi trình bày
vấn nạn này trong một cách thức cụ thể: Nostra Aetate không
hề bị đặt lại bởi Huấn quyền của Giáo Hội, như chính
Ðức Thánh Cha đã minh chứng trong các bài nói chuyện, các
bài viết và các cử chỉ của ngài khi gặp gỡ người Do
Thái. Một sự xích lại gần hơn với Huynh đoàn Thánh Pio
không có nghĩa là chấp nhận và ủng hộ lập trường của
họ. Chắc chắn rằng về hình thức, chúng ta có thể đưa ra
một sự phân biệt giữa các bản văn khác nhau của Công
Ðồng; tuy nhiên, xét về mặt nội dung thì chúng là một thể
thống nhất không thể tách rời hay không thể đối chọi nhau.
Do
đó, Nostra Aetate không thể được xem như một thiên thể độc
lập, rơi trực tiếp từ trời xuống và không có sự liên
hệ nào với các bản văn khác của Công Ðồng. Vì thế,
khởi đầu triều đại Giáo Hoàng của mình, Ðức Thánh Cha
Biển Ðức 16 đã xóa tan mọi nghi vấn bằng cách đồng ý
hoàn toàn với Công Ðồng và các tài liệu của Công Ðồng
trong một cái nhìn thống nhất. Khi trình bày về một phương
pháp chú giải các bản văn của Công Ðồng, ngài đã diễn
tả rõ quan điểm này trong bài nói chuyện nổi tiếng của
mình trước Giáo Triều Roma trong dịp mừng lễ Giáng Sinh năm
2005.
Nostra
Aetate được xem là "tài liệu nền tảng" và là
"Magna charta" (tài liệu quan trọng) trong cuộc đối thoại
giữa Giáo hội Công Giáo Rôma và Do thái giáo. Tuyên ngôn
này bắt đầu với việc phản tỉnh về mầu nhiệm và sứ vụ
của Giáo hội trong lịch sử cứu độ và cũng nhắc nhớ về
mối dây hiệp thông sâu sắc nối kết dân của Tân Ước
với con cháu Abraham. Tuyên ngôn này nói rõ về thái độ
cần phải tránh khi đối xử với người Do thái, đó là
thái độ khinh khi, hạ giá và xúc phạm. Hơn nữa, Tuyên
ngôn này cũng minh nhiên nhấn mạnh về nguồn gốc Do thái
của Kitô giáo và đã nỗ lực để đánh đổ những kết
án dành cho người Do thái diễn ra ở nhiều nơi trong nhiều
thế kỷ qua. Về phần mình, người Do thái đặc biệt đánh
giá cao nỗ lực của Giáo Hội Công Giáo ngang qua tài liệu
này đã chống lại mọi hình thức bài Do Thái. Do đó, họ
tiếp tục được an ủi và hi vọng về khả năng Giáo hội
Công giáo sẽ là một đồng minh đáng tin cậy trong trận
chiến chống lại phong trào bài Do thái vốn chưa thể loại
trừ trong thế giới hôm nay.
Những
chất liệu hình thành nên bản dự thảo của tuyên ngôn Nostra
Aetate có thể được tổng kết ở ba điểm sau: một sự phản
tỉnh về lương tâm Kitô giáo sau thảm họa Holocaust, sự phát
triển của khoa học Kinh Thánh cho đến Công Ðồng Vaticano II và
cuối cùng là sự thành lập nhà nước Israel vào năm 1948.
Trong bối cảnh Kitô giáo, thì những hậu quả mà con người
phải đối diện trong thảm họa Holocaust chính là yếu tố quyết
định thúc đẩy Giáo hội soạn thảo bản văn này. Một yếu
tố khác đóng vai trò không nhỏ liên quan đến yếu tố chính
trị và thực tiễn đó là sự ra đời của nhà nước
Israel. Sau khi nhà nước này được thành lập, Giáo Hội
Công Giáo đã có thể hiện diện ở Ðất Thánh và đã thi
hành đời sống mục vụ của mình trong một đất nước vốn
được xem là quốc gia của Do thái Giáo. Khi xem xét đến
những nguyên lý thần học được tìm thấy trong Nostra Aetate
như là một cấu trúc nền tảng chúng ta cần lưu ý rằng,
trong những nghiên cứu Kinh thánh trước Công Ðồng, hình
ảnh của Ðức Giêsu Nadaret đã bắt đầu được xem xét
nhiều hơn trong bối cảnh của Do thái giáo trong thời đó. Do
đó, Tân Ước đã được xem xét trong bối cảnh của các
truyền thống của Do thái và Ðức Giêsu được xem là một
người Do thái trong thời đại của Ngài và tuân theo những
truyền thống này.
Khi
phản tỉnh về những ảnh hưởng của các tài liệu Công
Ðồng Vaticano II, chúng ta không e ngại để xác nhận rằng
Nostra Aetate là một tài liệu quan trọng giữa các tài liệu
này và nó đóng góp một phần quan trọng và đưa ra một
định hướng nền tảng cho Giáo hội Công Giáo sau công đồng.
Sự tôn trọng dành cho người Do Thái được diễn tả trong
Tuyên Ngôn này đã giúp hai bên chuyển từ thái độ nghi kỵ
lẫn nhau trong nhiều thế kỷ sang thái độ sang thái độ hợp
tác, hai bên đã trở thành đối tác đáng tin cậy của nhau
và thậm chí là thành những người bạn thân để có thể
cùng nhau đối diện với những khủng hoảng và vượt qua
những xung đột trong một cách thế tích cực.
Trong
cuộc đối thoại với Do thái giáo, khởi đầu triều đại
Giáo Hoàng của mình, Ðức Thánh Cha Biển Ðức đã nhấn
mạnh rằng, theo bước chân người tiềm nhiệm, ngài không
chỉ ước mong phát triển mà còn tăng cường mối liên hệ
với những người Do thái. Ðiều này thì không thể nghi
ngờ vì những nỗ lực của Ðức Gioan Phaolo II trong việc
đối thoại giữa Công Giáo và Do thái thì được đảm bảo
và được xây dựng trên Ủy Ban Giáo Lý Ðức Tin do hồng Y
Ratzinger làm bộ trưởng. Với tư cách là một nhà nghiên
cứu Kinh Thánh, ngang qua việc nghiên cứu Cựu Ước và Tân
Ước, hồng Y Ratzinger đã xây dựng những mối tương quan
thắm thiết với người Do thái; và ngài cũng đã tăng
cường các mối tương quan cá nhân với người Do thái trong
thời gian ngài ở Roma. Quan điểm nền tảng thần học của
Ratzinger dựa trên niềm xác tín cho rằng Kinh thánh chỉ có
thể được hiểu một cách đích thực khi xem nó là cuốn
sách duy nhất; và do đó, "concordia testamentorum" (sự
hoà hợp giữa các bản văn Kinh Thánh) là một một yếu tố
thiết yếu để giải thích đúng đắn sứ điệp Kinh thánh về
cứu độ.
Trong
ánh sáng của những niềm xác tín này, ta không lấy làm
ngạc nhiên khi Ðức Thánh Cha gánh vác sứ mạng hòa giải
đã được bắt đầu bởi vị tiền nhiệm của mình trong công
cuộc đối thoại giữa Công giáo và Do thái. Ngài không chỉ
gửi đến vị Trưởng Hội Ðường Do thái giáo ở Roma trong
là thư đầu tiên trong triều đại của ngài mà còn tái xác
nhận điều này trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với vị ủy
viên của người Do thái vào ngày 9 tháng 7 năm 2005. Giáo
hội Công giáo đang bước những bước đi vững chắc dựa
trên những nguyên lý được thiết lập bởi Nostra Aetate; và
tiếp bước vị tiền nhiệm của mình, Ðức Thánh Cha chắn
chắn sẽ tiếp tục cuộc đối thoại này.
Nguyễn
Minh Triệu sj
(Radio
Vatican)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét