Việc hình thành Kinh Tin Kính
Bốn Công Đồng Chung Đầu Tiên
Các
Kitô hữu tiên khởi không quan tâm đến triết lý, thần học. Họ làm chứng
về Đức Kitô, Đấng gọi Thiên Chúa duy nhất của Kinh Thánh là Cha và đã
phái Thánh Linh đến với họ. Họ rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần (Mt 28,19). Thế nhưng phải nói thế nào cho thế giới chung quanh
hiểu niềm tin đó? Tại sao Thiên Chúa duy nhất vừa là Cha là Con, là
Thánh Thần? Tại sao một nhân vật chào đời, sống rồi chết, lại là Chúa,
vì Chúa thì bất biến?
Kinh
Tin Kính các tín hữu nay vẫn đọc ngày Chúa nhật, là kết quả của bốn
công đồng chung các Giám mục, là những vị hữu trách trong Giáo Hội. Bản
kinh đã được hình thành khá vất vả, với nhiều tranh chấp lẫn bạo lực,
nhiều xung đột cá nhân, văn hóa, khu vực, tù đày, gây gỗ, đồ máu, sự can
thiệp của chính quyền và quân đội ... Đó là hậu trường của việc hình
thành Kinh Tin Kính.
I. ĐỨC GIÊSU, THÁNH LINH LÀ THIÊN CHÚA?
1,1. Cuộc khủng hoảng Ario
Từ
thế kỷ thứ II, để bảo vệ niềm tin độc thần của Thánh Kinh, nhiều người
tìm nhưng cách giải thích khác nhau về niềm tin Ba Ngôi trong công thức
rửa tội. "Ảo thân thuyết" nói Đức Giêsu có thân xác giả, "Nghĩa tử
thuyết" nói Ngài là người thường được Chúa nhận là Con. Kẻ thì bảo Cha ở
trong Con và đồng thụ nạn, kẻ lại nói Con thấp hơn và lệ thuộc vào Cha.
Họ thường dựa vào Ga 14,28: "Cha Tôi cao trọng hơn Tôi" để quả quyết
như vậy.
Sau
biến cố 313, các cuộc tranh luận không dừng ở địa phương nữa nhưng lan
nhanh khắp đế quốc. Nổi bật là lối giải thích của Linh mục Ario. Ario
phụ trách giáo xứ Baucalis thuộc giáo phận Alexandria, vốn đạo đức và
tài năng, được nhiều người mến chuộng. Ông muốn bảo vệ Thiên Chúa duy
nhất, chỉ mình Ngài không có khởi sự. Vì thế ông nói Chúa Con có khởi sự
được tạo dựng, không đồng bản tính với Cha; Ngôi Lời bất toàn, đồi thay
và chỉ được gọi là Chúa ...
Alexandro,
Giám mục Alexandria không chấp nhận điều đó. Chúa Con, Lời Thiên Chúa
phải hiện hữu từ vĩnh cửu như Cha. Vì nếu Ngài không phải là "Thiên Chúa
làm người" thì con người không thể được Thiên Chúa hóa và không được
cứu độ. Năm 318, Ario và một số thân hữu bị vạ tuyệt thông. Nhưng ông
không bỏ cuộc, ông thuyết phục nhiều bạn học cũ trong đó có Giám mục
Eusebio. Cuộc tranh luận giữa hai phe bùng nổ từ trong rạp hát ra đến
chợ búa, công trường. Ario còn viết một số tác phẩm và ca vè dân gian
bênh vực cho ý tưởng của mình.
Hoàng
đế Constantin, sau khi thống nhất đế quốc, đã tìm cách vãn hồi trật tự.
Ông nghĩ đây là cuộc tranh luận về từ ngữ như triết học nên ra lệnh cho
đôi bên phải giải hòa. Đến khi thất bại, hoàng đế nghe Giám mục Osio cố
vấn, viết thư mời tất cả các Giám mục về dự công đồng. Ông tin rằng sự
hiệp nhất của Giáo Hội ảnh hưởng lớn đến sự hiệp nhất của đế quốc.
1,2. Công đồng Nicêa (325)
Có
đến 318 nghị phụ từ khắp nơi đồ về (300 Giám mục Đông phương, 2 linh
mục Roma). Mới hôm nào còn trốn chui trốn nhủi, nay các nhà anh hùng bỡ
ngỡ đoàn tụ trong lâu đài lộng lẫy. Cuộc tranh luận kéo dài một tháng
trong ôn hòa. Nhóm Ario bị kết án. Giám mục Osio đưa ra bản Kinh Tin
Kính trong đó khẳng định Chúa Con đồng bản tính (Homoousios)
với Chúa Cha, xác định Cha và Con bằng nhau hoàn toàn. Ario và 2 giám
mục theo ông bị đày qua Ba Tư. Ba giám mục khác không đồng ý nhưng ký
nhận, về sau rút lại, bị phát lưu qua Gallia.
Ngoài
ra công đồng cũng chỉnh đốn một số kỷ luật Giáo Hội: ngày lễ Phục Sinh
vào chúa nhật, hạn chế việc giáo sĩ sống với phụ nữ. (Công đồng Elvira
năm 300 ra luật độc thân giáo sĩ cho Tây Ban Nha). Đức cha Paphnuce tuy
độc thân, đã đề nghị đừng áp đặt luật đó cho mọi giáo sĩ. Về thứ tự các
Giáo đoàn lớn ta thấy: Roma, Alexandria, Antiokia, Giêrusalem.
1,3. Nửa thế kỷ xáo trộn
Thỏa
hiệp trong công đồng Nicêa chẳng bao lâu bị đặt lại vấn đề. Nhiều người
không đồng ý chữ Homoousios vì không có trong Kinh Thánh. Họ cảnh giác
sợ rơi vào lạc giáo không phân biệt Cha với Con. Đa số các vùng Đông
phương theo họ, trừ thánh Athanasio, Giám mục Alexandria (+373). Giáo
hội bên Tây vẫn trung thành với Nicêa ... Để xoa dịu quần chúng, Hoàng
đế phát lưu Athanasio, mở công đồng Tyro (335), ân xá cho Ario và đón
ông về cách trọng thể (năm sau ông qua đời).
Thời
hoàng đế Constans, việc chia rẽ càng gia tăng. Tại Công đồng Sardica
(343), Đông phương đòi kết án Athanasio. Từ năm 351, hoàng đế
Constantius theo hẳn Ario. Phía Latinh bị lưu đày: đức Liberio, thánh
Hilario, giám mục Osio thành Cordoba ... Đức Liberio bị áp lực, đã kết
án những ai dùng từ homoousios để truyền bá thuyết Sabellius (Hình thái
Thuyết: một Chúa với ba hình thức). năm 359, hoàng đế thành công khi đưa
ra công thức homoios: "Chúa Giêsu giống Chúa Cha theo như Kinh Thánh
dạy". Thánh Giêrônimô tỏ ra đau đớn kêu lên: "Cả thiên hạ bỡ ngỡ, khi
thấy mình thuộc về Ario". Riêng Antiokia bị chia thành năm nhóm với
những Giám mục cho mỗi nhóm.
1,4. Công Đồng Constantinopoli (381)
Cùng
trong hướng suy nghĩ của Ario, khoảng năm 360, Macêdonius, giáo chủ
Constantinopoli chối Thánh Linh không phải là Thiên Chúa. Một vấn nạn
thần học mới được đặt ra. Thánh Basilio và Grêgoriô Naziano đã tìm thấy
một cách trình bày mới, bằng cách phân biệt bản tính (Ousia) và ngôi vị (Personna).
Một Chúa, một bản tính, ba ngôi vị. Lối trình bày mới vừa diễn tả được
việc đồng bản tính vừa thoát khỏi "Hình Thái Thuyết" của Sabellius.
Hoàng
đế Théodose, người tuyên bố Kitô giáo là quốc giáo, đã quyết định chấm
dứt các tranh luận. Năm 381, hoàng đế triệu tập Công đồng
Constantinopoli với 181 giám mục Đông phương, nhưng 36 vị theo
Macêdonius bỏ về. Công đồng lấy lại Kinh Tin Kính Nicêa và thêm lời
tuyên tín về Thánh Thần "Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa
và là Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha mà ra, Người cùng được phụng
thờ và tôn kính với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con"...
Về
Đức Chúa Con, công đồng thêm: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã
nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người...". Các giám mục
Pháp và Bắc Ý cũng họp nhau tại Aquiléa truất phế các giám mục theo
Ario. Phe Ario biến dần, chỉ còn sót lại nơi dân German do giám mục
Wulfila phổ biến.
II. ĐỨC GIÊSU NHẬP THỂ THẾ NÀO?
2,1. Tranh luận về Kitô học
Sau
khi xác tín về Chúa Ba Ngôi, các tranh luận xoay quanh mầu nhiệm Nhập
Thể, việc kết hiệp giữa thiên tính Ngôi Lời và con người Đức Giêsu. Ngôi
Lời vĩnh cửu còn Đức Giêsu được sinh ra, chịu chết. Ta có thể nói Thiên
Chúa sinh ra, chịu nạn chịu chết không?
Appolinarius,
giám mục Laodicea (+390), bạn của thánh Athanasio tìm cách giải quyết.
Theo triết học thời đó, Đức Giêsu như mọi người gổm xác và hổn. Nơi Ngài
linh hổn được Ngôi Lời đảm nhiệm. Đức Giêsu không thể phạm tội. Nhưng
ngay sau đó, nhiều người có cảm tưởng Appolinarius phủ nhận việc cứu
chuộc. Họ nói: chỉ những gì của con người được Đức Kitô đảm nhiệm mới
được cứu độ.
Thời đó có hai khuynh hướng thần học:
Tại
Alexandria : người ta khởi từ Ngôi Lời, nhấn mạnh sự duy nhất nơi Đức
Kitô. Đức Kitô là Ngôi Lời mang xác phàm, đó là điều kiện để con người
được thần hóa (lược đồ Ngôi Lời - Xác).
Tại
Antiokia: người ta nhấn mạnh về hai phương diện nơi Đức Kitô, khởi từ
hai bản tính để đi đến thống nhất. Họ cố bảo vệ trọn vẹn nhân tính Đức
Giêsu (lược đồ Ngôi Lời - Người).
Hai
quan điểm trên đưa đến cuộc tranh luận gay gắt giữa hai đối thủ tương
xứng là thánh Cyrillo d'Alexandria và Nestoriô ở Constantinopoli. Vị
Giám mục ở đế đô, vốn nguyên quán Antiokia, là nhà hùng biện đầy nhiệt
huyết. Khoảng năm 424 ông cấm các tín hữu khẩn cầu Đức Maria như
Théotokos, nghĩa là Mẹ Thiên Chúa. Theo ông, Kinh Thánh không có hạn từ
này và Đức Maria chỉ là Mẹ của nhân vật Giêsu. Và như thế, Đức Giêsu chỉ
được phúc mặc lấy Thiên Tính, thân thể ngài là đền thờ của Ngôi Lời (2
ngôi vị).
Ngược
lại, thánh Cyrillo muốn bảo vệ sự duy nhất nơi Đức Kitô và lòng tin
chung của tín hữu. Ngài bênh vực Đức Kitô gần như chỉ có một bản tính và
liên lạc với đức Celestinô I kết án Nestorio. Ngài yêu cầu Nestorio ký
vào bản văn xác định nơi Đức Giêsu, Ngôi Lời và Con người kết hợp thành
một. Nestorio liền nhờ bạn hữu ở Antiokia là các giám mục Gioan và
Theodoret tố cáo Cyrillo theo Appolinarius. Thấy tình hình xáo trộn,
hoàng đế Théodose II liền triệu tập Công đồng Ephesô, yêu cầu các tỉnh
đều cử đại biểu. Thánh Augustino cũng được mời, nhưng qua đời trước khi
đến công đồng.
2,2. Công đồng Ephesô (431)
Các
sử gia đương thời cho ta thấy nhiều xung đột trong diễn biến công đồng.
Thánh Cyrillo được Roma ủy quyền chủ tọa, đã đưa theo 50 Giám mục vùng
Ai Cập, rồi cùng với 110 vị ở Palestina và Tiểu Á, đã quyết định khai
mạc công đồng khi các giám mục vùng Antiokia và Syria chưa kịp đến, mặc
cho đại diện cho hoàng đế và 60 Giám mục yêu cầu hoãn cuộc họp.
Chỉ
trong một ngày, Công đồng truất chức Nestorio vắng mặt, cùng 12 mệnh đề
bị kết án. Dân chúng biểu lộ niềm hân hoan và chúc mừng Công đồng bằng
cuộc rước đuốc vĩ đại đêm 22.6. Với giới bình dân, Đức Kitô đã thắng lạc
giáo và tín điều Mẹ Thiên Chúa được xác định.
Các
nghị phụ thuộc phe Nestorio đến trễ phản đối bản văn của thánh Cyrillo,
họ kết án Cyrillo và nhóm của ngài. Người ta không rõ ai trong các Giám
mục không bị kết án nữa. Viên đại diện hoàng đế liền ra lệnh bắt cả hai
vị, Thánh Cyrillo trốn kịp, được dân Alexandria tiếp đón trọng thể. Còn
Nestorio bị lưu đày và qua đời tại Lybia.
Nội
dung tín lý của công đồng Ephêsô không nhiều, và chỉ có một văn kiện
kết án Nestorio. Các vị Giám mục Tiểu Á không chấp nhận lối trình bày
của Cyrillo, các ngài cho rằng nhiều từ ngữ chưa chỉnh. Công đồng Ephesô
chỉ xác định lại thế giá công đồng Nicea, bênh vực Đức Kitô duy nhất.
Không còn ai tranh cãi về "Mẹ Thiên Chúa". Khoảng 20 tháng trôi qua (năm
433) nhờ Giám mục Gioan Antiokia, một công thức mới đã được thỏa thuận
"Có sự hợp nhất của hai bản tính (...) và vì sự hợp nhất này, chúng tôi
tuyên xưng Đức Nữ Trinh là Mẹ Thiên Chúa". Công thức này được Thánh
Cyrillo chấp nhận và đức Sixto II châu phê.
2,3. Công đồng Calcedonia (451)
Thế
nhưng thỏa hiệp 433 không làm vừa lòng những thành phần cực đoan của cả
hai phía. Theodoret miền Syria luôn bảo vệ hai bản tính của Đức Kitô,
không nói gì đến việc "kết hợp mà không lẫn lộn". Viện phụ Eutykes
(+454) ở Constantinople, cho rằng nơi Đức Kitô, Thiên Tính bao trùm nhân
tính đến độ chỉ còn thiên tính (Monophysis). Giám mục đế đô là thánh
Flavianô liền tổ chức một công đồng kết án Eutykes. Vị này cầu cứu Tòa
Thánh và Dioscorus là Giám mục Alexandria.
a/. Mẻ cướp Epheso (449):
Hoàng đế Theodose II bạn của Eutykes mời tất cả những Giám mục ủng hộ
vị này về dự hội nghị Epheso. Đức Leo I có cử ba đại biểu và gửi thư tỏ
lập trường, nhưng vị Giám mục chủ tọa là Dioscorus, bạn Eutykes, không
cho đọc lá thư đó. Nhóm Eutykes chỉ phải ký nhận Kinh Tin Kính Nicea.
Ngược lại, Giám mục nào nói Đức Kitô hai bản tính thì đều bị truất chức.
Quân lính triều đình được mời đến để "đánh chết những kẻ phân biệt hai
bản tính". Thánh Flavianô bị đánh trọng thương rồi chết. Giám mục
Theodoret báo tin cho Roma và Đức Leo liền phi bác "mẻ cướp Epheso". Thế
nhưng học thuyết Eutykes được công khai tuyên truyền cho đến hoàng đế
qua đời.
b/. Công đồng Calcedonia (451):
Tân hoàng đế Marcianus (450-457) đứng về phía Roma. Hoàng đế yêu cầu
Giáo hoàng đến chủ tọa công đồng. Nhưng Đức Lêo I không thể đi được vì
Hung Nô đã xâm lăng đất Ý. Ngài cử sứ giả đến chủ tọa công đồng
Calcedonia. Giám mục Dioscorus cũng đến và đề nghị kết án đức Lêo, ngược
lại, ông bị tố cáo về tội lộng hành, bị cách chức và lưu đày. Thánh
Flavianô được phục hồi.
Về
Giáo lý, Kinh Tin Kính Nicea-Constantinopoli và thơ đức Lêo được đem ra
đọc. Ngay đó các nghị phụ đã đồng thanh tung hô : "Đây là đức tin các
Giáo phụ, đức tin các Tông đồ. Tất cả chúng tôi đều tin như vậy... Phêrô
đã nói qua miệng Lêo". Sau khi áp dụng kỷ luật cho những người tham gia
vào mẻ cướp Ephêso, Công đồng đưa ra một công thức Đức Tin dựa vào hai
bản văn trên: "Đức Kitô, chúng tôi nhìn nhận có hai bản tính không lẫn
lộn, biến đồi, phân chia hay lìa nhau. Sự khác biệt giữa hai bản tính
không bị mất vì kết hiệp, trái lại các đặc tính của môỵi bản tính vẫn
nguyên vẹn trong một ngôi vị duy nhất".
Từ nay nền tảng Kitô học đã rõ rệt. Đức Kitô một ngôi vị và hai bản tính.
III. LIÊN HỆ GIỮA CÁC GIÁO HỘI
Công
đồng Nicea khoản số 4, xác định sự liên đới giữa các giám mục trong
từng vùng, được qui tụ và phân phối do một giám mục thuộc thành phố lớn.
Đó là tiền thân của chức Thượng phụ Giáo chủ sau này. Khi đặt một Tân
giám mục: phải được giấy đồng ý của các Giám mục trong vùng; được vị
Thượng Phụ châu phê và được ba Giám mục tấn phong. Công đồng Nicea chỉ
nói đến bốn tòa Giám mục lớn là Roma, Alexandria, Antiokia và
Giêrusalem.
Khoản
3 của Công đồng Constantinopoli xác định khác hơn: "Giám mục
Constantinopoli có quyền ưu vượt liền sau Roma, vì thành phố này là Roma
mới". Từ nay Giáo hội đế đô đứng thứ hai trong "ngũ đầu chế" của Giáo
hội thời đó, như một số người thường nói.
Ưu
thế Giáo hội Roma, thủ đô đế quốc, nơi thánh Phêrô tử đạo là điều rõ
rệt. Một đàng giám mục Roma can thiệp vào sinh hoạt các Giáo hội địa
phương, và đàng khác các Giáo hội Đông phương vẫn nại đến Roma khi có
những khó khăn về tín lý. Thế nhưng, nếu tại Calcêdonia các Nghị phụ đã
coi đức Lêo là hiện thân của Phêro, thì cả đến thời đức Grêgorio, Đức
Thánh Cha vẫn là một Giám mục giữa các giám mục. Theo lối nói thời nay,
ngài cùng với "tập đoàn" Giám mục cai quản Hội Thánh.
TOÁT YẾU
Kinh
Tin Kính là công thức tuyên xưng ngắn gọn của các tín hữu Kitô. Niềm
tin của họ đặt nền trên mạc khải trong Thánh Kinh, thế nhưng cần phải
hiểu mạc khải đó ra sao ? Kinh Tin Kính là kết quả của bốn công đồng
chung Nicea, Constantinopoli, Epheso, và Calcêdonia.
Hai
Công đồng đầu tiên diễn đạt niềm tin Một Chúa - Ba Ngôi :Công đồng
Nicea (325) trả lời cho Ario chối Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa;
Công đồng Constantinopoli (381) giải đáp cho Macedonius không tin Thánh
Thần là Thiên Chúa.
Hai
Công đồng kế tiếp xoáy mạnh vào mầu nhiệm Chúa Kitô nhập thể : khởi từ
việc Nestorio không nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Công đồng Epheso
(431) xác quyết Ngài chỉ có một Ngôi vị và tín điều Mẹ Thiên Chúa. Sau
đó Eutykes nói Đức Giêsu chỉ có một bản tính, Công đồng Calcedonia (451)
xác định việc Ngôi Hiệp cả thiên tính lẫn nhân tính nơi Ngài.
Trong
tinh thần Vatican II về đại kết, chúng ta cần cảm thông với sự chân
thành của những anh em "lạc giáo". Thường vì quá bênh vực một khía cạnh
của chân lý, các vị để sót mất khía cạnh khác.
1. Bầu khí cuộc tranh luận đạo lý với Ario?
2. Nội dung chính của Công đồng Nicea?
3. Định nghĩa Ngôi vị và Bản tính?
4. Hai khuynh hướng Alexandria và Antiokia?
5. Những lối viết về Đức Kitô ngày nay có thể theo suy nghĩ của Eutykes chăng? Thí dụ.
6. Bài học lịch sử bạn rút được nếu bạn phải tranh luận về đức tin?
7. Quyền tối thượng của Giáo Hoàng Roma?
Trích Cuộc lữ hành đức tin
Lm Phanxicô Xaviê Ðào Trung Hiệu, OP.
gxdaminh.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét