Tôi tin – Chúng tôi tin
Kinh Tin kính
là một trong những kinh quan trọng mà hầu hết mọi tín hữu đều thuộc lòng, từ
những em bé học lớp giáo lý để rước lễ lần đầu đến những người trưởng thành
muốn gia nhập Giáo Hội. Kinh này được khởi đầu bằng chữ “Tôi tin”, và từ này
được lặp đi lặp lại nhiều lần. Nội dung kinh Tin kính bao gồm những chân lý căn
bản của Kitô giáo.
Khi tuyên đọc “Tôi tin”, người tín hữu xác định đức tin là một hành vi
có tự do và được chọn lựa, là sự chấp nhận tin theo Chúa. Đức tin của Kitô hữu
không phải chỉ tin “có Chúa”, giống như tin một vật đang hiện hữu, ví dụ một
căn nhà, một chiếc xe, một sự việc… mà là tin “vào Chúa” với tâm tình phó thác,
trao gửi và mến yêu. Chữ “kính” trong ngôn ngữ Việt Nam diễn tả rất tuyệt vời ý niệm
đó. “Lời tuyên xưng “Tôi tin” đồng nghĩa
với “Tôi phó thác, tôi chấp nhận” (Đức hồng y Ratzinger “Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay”,
tr. 88). “Công thức của đức tin không
phải là ‘tôi tin điều gì’, nhưng là ‘tôi tin vào Chúa” (Sđd tr. 79).
Đức tin không
chỉ là một hành vi cá nhân, mà còn được tuyên xưng trong sự hiệp thông với cộng
đoàn Giáo Hội. Vì thế, bên cạnh việc tuyên xưng “Tôi tin”, người tín hữu còn
tuyên xưng “Chúng tôi tin”. Đức Bênêđitô XVI đã viết: “Việc tuyên xưng đức tin là một hành vi bản thân, đồng thời cũng có tính
chất cộng đoàn. Thực vậy, chính Giáo Hội là chủ thể đầu tiên của đức tin. Trong
đức tin của cộng đoàn Kitô, mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa tội, là dấu chỉ hữu
hiệu về sự gia nhập cộng đoàn các tín hữu để được ơn cứu độ. Như Sách Giáo Lý của
Hội Thánh Công Giáo làm chứng: “Tôi tin”; là đức tin của Giáo hội được mỗi tín
hữu tuyên xưng cá nhân, nhất là trong lúc chịu phép Rửa tội. “Chúng tôi tin” là
đức tin của Giáo hội được các giám mục họp nhau trong Công đồng, hoặc tổng quát
hơn, được cộng đồng phụng vụ các tín hữu tuyên xưng. “Tôi tin” cũng là Giáo Hội
Mẹ chúng ta, đáp lại Thiên Chúa bằng đức tin của mình và dạy chúng ta nói “Tôi
tin”, “Chúng tôi tin” (Tự sắc Năm Đức tin, số 10).
Ngay từ khi cộng
đoàn Kitô hữu vừa được hình thành, giống như một nhánh cây được tách rời khỏi
đại thụ là Do Thái giáo, các tông đồ và các tín hữu đã muốn khẳng định những
điều phải tin, dựa vào giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu. Bốn sách Tin Mừng và các
sách khác của bộ Tân Ước nhằm mục đích xây dựng một hệ thống giáo lý cho những
ai muốn nhập đạo, đồng thời nhằm nuôi dưỡng đời sống đức tin của các tín hữu. Vào
thời ban đầu, tức là thế kỷ thứ II và thứ III, kinh Tin kính có cấu trúc theo
dạng hỏi-thưa, được dùng trong phụng vụ phép rửa, gồm ba câu hỏi dành cho người
xin gia nhập Giáo Hội, đi kèm với ba lần dìm trong nước. Một truyền thuyết có
từ thế kỷ thứ V kể lại rằng trước khi các tông đồ chia tay nhau đi truyền giáo,
họ thấy cần phải thống nhất với nhau về những điều phải tin để có thể loan
truyền đức tin cho người khác. Sau khi cầu nguyện, mỗi người đều viết riêng ra
giấy một điều mình tin, và khi ghép lại với nhau, thì 12 vị trình bày 12 điều
tin khác nhau và thế là kinh Tin kính ra đời! Vì vậy mà có tên gọi “Kinh Tin
kính các tông đồ”.
Tuy vậy, cũng
từ rất sớm, đã có những bất đồng ý kiến giữa các Kitô hữu về nội dung đức tin
hoặc cách thực hành đức tin. Công đồng Giêrusalem đã được triệu tập vào khoảng
năm 48 như một bằng chứng về tình hiệp thông trong Giáo Hội (x Cv 15,1-29). Đây
là một biến cố quan trọng, vừa mở ra hướng đi mới là rao giảng Tin Mừng cho
những người ngoài Do Thái, vừa quyết định cho anh chị em lương dân khi trở lại
Đạo không phải giữ những ràng buộc của Lề Luật. “Văn kiện” công đồng đầu tiên
của Giáo Hội đã tuyên bố những quyết định nhân danh tập thể: “Anh em tông đồ và kỳ mục chúng tôi gửi lời
chào anh em gốc dân ngoại tại Antiôkia…” (Cv 15,23). Liên tiếp trong 4 thế
kỷ, thường xuyên có những tranh luận về mầu nhiệm Nhập thể, liên quan đến bản
tính, ngôi vị, vai trò và sứ mạng của Đức Giêsu. Các công đồng đã được triệu
tập để lắng nghe Chúa Thánh Thần và tìm ra tiếng nói chung trong Giáo Hội. Những
bản định tín của các công đồng đều luôn thể hiện đức tin cộng đồng và được mở đầu
bằng lời tuyên tín “Chúng tôi tin”. Năm 1967, trong khuôn khổ “Năm Đức tin” kỷ
niệm 1900 năm cuộc tử đạo của thánh Phêrô và thánh Phaolô tông đồ, Đức Phaolô VI đã soạn thảo
một Kinh tin kính, nhằm tuyên xưng nội dung trọn vẹn của đức tin công giáo. Với
tên gọi “Kinh Tin kính của Dân Chúa”, kinh này thể hiện “Giáo Hội tính”, tức là
tính tập thể, cách rõ ràng trong lời tuyên xưng đức tin. Đức Phaolô VI đã dùng
17 lần “Chúng tôi tin” và 1 lần “Chúng tôi tuyên xưng” trong Kinh Tin kính này.
“Kinh Tin kính của Dân Chúa” được chính thức công bố ngày 30-6-1968.
Hiểu như trên, đức tin của người tín hữu phải
được tuyên xưng với hai đại từ nhân xưng, ở ngôi thứ nhất số ít (Tôi) và số
nhiều (Chúng tôi).
Tôi tin: đây là điều tôi tuyên xưng một cách đặc biệt trong
ngày được thanh tẩy. Dù lúc đó tôi chỉ là một em bé mới sinh, nhưng cha mẹ và
người đỡ đầu đã thay tôi để tuyên tín điều ấy. Mặc dù được tuyên xưng bởi cha
mẹ và người đỡ đầu, đức tin mà tôi lãnh nhận trong ngày được thanh tẩy vẫn là
đức tin của cá nhân tôi. Mỗi ngày, thể xác tôi dần dần lớn lên và đức tin cũng
từng bước trưởng thành, đơm hoa kết trái nơi cuộc đời của tôi. Những câu kinh
bập bẹ khi tôi vừa biết nói, đó là dấu thánh giá và sau đó là câu “Tôi tin”. Mặc
dù tôi chưa hiểu biết gì, nhưng tôi tin vào Chúa trong sự thương yêu và hướng
dẫn của cha mẹ và mọi người trong gia đình. Như thế, đức tin do cha mẹ tuyên
xưng thay tôi sẽ dần dần trở thành đức tin “của tôi” một cách thực thụ. Khi
tuyên xưng “Tôi tin”, tôi khẳng định tôi đã được “gặp gỡ” Thiên Chúa, mặc dù
chưa bao giờ được nhìn thấy Ngài. Khi đó, tin không còn là một
khái niệm trừu tượng thuần túy lý thuyết, nhưng “là một cuộc gặp gỡ với con người Giêsu, và qua cuộc gặp gỡ đó mà nhận
ra rằng, ý nghĩa của thế giới là một con người, một ngôi vị sống động” (Đức
hồng y Ratzinger “Đức tin Kitô giáo hôm
qua và hôm nay”, tr. 79).
Chúng tôi tin: dù đức tin là hành vi cá
nhân, tôi không chỉ sống đức tin một cách đơn lẻ. Tôi sống trong Giáo Hội, như
con thơ sống trong cánh tay ôm ấp của Mẹ hiền. Vì Giáo Hội là chủ
thể của đức tin, nên đức tin của tôi được xây dựng trên nền tảng đức tin của
Giáo Hội. Giáo Hội là người quản lý kho tàng đức tin, đồng thời nuôi dưỡng các tín
hữu bằng kho tàng đó. Có thể tôi không hiểu thấu nội dung đức tin, nhưng tôi
tin trong Giáo Hội, với Giáo Hội và trong tình hiệp thông với anh chị em đồng
đạo của tôi. Khi tin trong Giáo Hội, tôi không sợ bị lầm lạc, vì Giáo Hội là Mẹ,
luôn mong muốn cho con mình những điều tốt đẹp. Giáo Hội vừa là chủ thể, vừa là
đối tượng của đức tin, vì thế cùng với đức tin vào Chúa, tôi còn tuyên xưng: “Tôi tin Giáo Hội Duy nhất, Thánh thiện, Công
giáo và Tông truyền…”. Đức tin nơi Giáo Hội đem lại cho tôi niềm xác tín
vào những gì Giáo Hội thông truyền. Tôi xác tín rằng, Giáo Hội mà dạy thì chẳng thể sai
lầm, vì có Chúa Thánh Thần ở cùng Giáo Hội. Như thế, dù môi miệng tôi vẫn tuyên
đọc “Tôi tin”, nhưng khi tôi tin với Giáo Hội và trong Giáo Hội, chữ “Tôi tin”
trở thành “Chúng tôi tin”. Đức tin nhiệm màu là thế.
Một đức tin
trọn vẹn phải được thể hiện trong hai chiều kích: cá nhân và cộng đoàn. Nếu chỉ
có “Tôi tin” mà thôi, đức tin của tôi dễ bị khiếm khuyết, lầm lạc. Nếu chỉ dùng
lại ở “Chúng tôi tin”, đức tin ấy sẽ mang tính cơ hội, phong trào. Đức Thánh
Cha cảnh báo một nguy hiểm hiện nay là nhiều người chỉ coi đức tin như một vấn
đề thuần túy cá nhân: “Hiện nay, tại một số miền trên thế giới, nhất
là tại Tây Phương, có xu hướng loại trừ Thiên Chúa hoặc coi đức tin chỉ là một
chuyện riêng tư, không ăn nhằm gì tới đời sống xã hội. Trong khi tất cả các giá
trị làm nền tảng cho xã hội xuất phát từ Tin Mừng - như cảm thức về phẩm giá
con người, tình liên đới, lao công và gia đình -, người ta nhận thấy một sự
“che khuất Thiên Chúa”, một sự mất trí nhớ, thậm chí một sự chối bỏ thực sự đối
với Kitô giáo và một sự phủ nhận kho tàng đức tin đã nhận lãnh, đến độ có nguy
cơ đánh mất chính căn tính sâu xa của mình” (Sứ điệp Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2011, số 1). Đức Thánh Cha
còn khẳng định: “Kitô hữu không bao giờ
được nghĩ rằng đức tin là một điều riêng tư. Đức tin là quyết định đứng về phía
Chúa để sống với Ngài. Và thành ngữ “ở với Chúa” giúp hiểu biết những lý do tại
sao ta tin. Chính vì đức tin là một hành vi tự do, nên cũng đòi hỏi một trách
nhiệm xã hội về những gì ta tin” (Tự sắc Năm Đức tin, số 10). Vì quan niệm
đức tin là vấn đề cá nhân nên nhiều người chủ trương tự do thực hành hay không
thực hành đức tin, kể cả cha mẹ hay những người có trách nhiệm cũng không có
quyền can thiệp. Quan niệm đức tin là “vấn đề riêng tư” còn làm cho tín hữu
sống khép kín, thiếu hòa đồng với cộng đoàn giáo xứ cũng như cộng đoàn xã hội. Không!
Đức tin không phải chỉ là chuyện riêng tư. Trách nhiệm của mỗi người là sống
đức tin và loan báo đức tin cho anh chị em đồng loại.
Giáo Hội công
giáo đang chuẩn bị bước vào Năm Đức tin. Bộ Giáo lý Đức tin đã đưa ra những
hướng dẫn mục vụ để Năm Đức tin sinh nhiều hiệu quả nơi Giáo Hội, ở nhiều cấp
độ khác nhau. Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đã đề ra những dự tính để
giúp các tín hữu học hỏi và sống đức tin. Đây là dịp để mỗi tín hữu duyệt lại
đời sống đức tin của mình, đồng thời tái khám phá niềm vui của đức tin và lòng
nhiệt thành hăng say truyền giáo. Mỗi người hãy tự hỏi “đâu là suy nghĩ và thái độ của Kitô hữu, khi họ đặt cuộc sống mình
trước hết và trên hết vào động từ “tôi tin” và qua đó khẳng định – một điều
không hề đương nhiên – tâm điểm của Kitô giáo là một “niềm tin” (Đức hồng y
Ratzinger “Đức tin Kitô giáo hôm qua và
hôm nay”, tr. 47).
Khi ý thức
được hai chiều kích quan trọng này của đức tin, chúng ta sẽ cố gắng để làm cho
đức tin lớn lên trong ta mỗi ngày. Đức tin trưởng thành sẽ dẫn chúng ta đến gặp
gỡ Đức Giêsu, để nhờ Người mà đến cùng Chúa Cha.
“Hãy có một đức tin sắt đá, con
sẽ làm được tất cả, vì mỗi lần Chúa làm phép lạ, Người hỏi có tin không. Đức
tin con làm cho con được lành” (Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng,
278).
Hải Phòng ngày 14-7-2012
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét