“Canh
tân các sứ giả Tin Mừng để phục vụ công cuộc Tân Phúc âm hóa tại châu Á”
Sứ điệp Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội đồng giám
mục Á châu
***
“Chúng tôi loan báo cho anh chị em điều chúng tôi đã thấy
và đã nghe” (1 Ga 1, 3)
Chúng
tôi, các giám mục đại diện của các Hội đồng Giám mục thành viên và các Hội đồng
Giám mục liên kết, thuộc Liên Hội đồng Giám mục Á châu, đã họp Hội nghị toàn
thể lần thứ X tại Xuân Lộc và Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam), từ ngày 10 đến
ngày 16 tháng Mười Hai 2012. Tham dự Hội nghị, có: Đức hồng y Gaudencio Rosales, Đặc sứ của Đức Thánh Cha; Đức Tổng
giám mục Saviô Hàn Đại Huy SDB, Tổng thư ký Bộ Loan báo Tin Mừng các dân tộc;
Đức Tổng giám mục Leopoldo
Girelli, Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam; quý đại
biểu huynh đệ của các Liên Hội đồng Giám mục châu Đại dương, châu Mỹ Latinh và
châu Âu; quý đại biểu một số tổ chức quyên góp và tài trợ; quý Đức cha và Thư
ký các văn phòng FABC; và quý khách mời. Tổng số đại biểu tham dự là 111 vị
(gồm: 7 hồng y, 69 giám mục, và 35 linh mục, tu sĩ, giáo dân).
Chúng
tôi cảm tạ Chúa về biến cố lịch sử bản Quy
chế thành lập FABC được Tòa Thánh chuẩn nhận 40 năm trước đây. Quả là một
hồng phúc đặc biệt cho chúng tôi vì dịp kỷ niệm 40 năm FABC lại trùng với bốn
biến cố quan trọng: Năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vatican II,
20 năm xuất bản sách Giáo lý Hội Thánh
Công giáo, và Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ 13 vừa kết thúc về Tân Phúc
âm hóa để thông truyền đức Tin Kitô giáo.
Tất
cả những biến cố này nhắc chúng ta ý thức về căn tính sâu xa nhất của mình:
chúng ta là một cộng đoàn đức Tin được Chúa kêu gọi thực thi sứ vụ loan báo Tin
Mừng nơi trần gian. Chúng tôi cảm tạ Chúa đã chúc lành cho FABC trong công cuộc
canh tân sứ vụ yêu thương và phục vụ tại châu Á.
Chúng
tôi hết lòng biết ơn Giáo hội tại Việt Nam, đặc biệt các giáo phận Xuân Lộc và
TP.HCM, đã dành cho chúng tôi sự đón tiếp hết sức nồng hậu và hiếu khách. Chúng
tôi cảm ơn Chính phủ Việt Nam
đã cởi mở và giúp đỡ Hội nghị chúng tôi được diễn ra tại đất nước có những
truyền thống và văn hóa phong phú này. Chúng tôi nguyện xin Thiên Chúa ban muôn
ơn lành cho Giáo Hội tại Việt Nam
và nhân dân Việt Nam.
Chúng
tôi cũng bày tỏ tình hiệp thông và liên kết, cũng như sự khích lệ, đối với Giáo
hội Công giáo tại Trung Quốc. Các đại biểu của Giáo hội Trung Quốc đã không có
mặt tại Hội nghị của chúng tôi. Chúng tôi thiết tha mong mỏi sẽ có ngày cuộc
quy tụ huynh đệ được mở rộng thêm ra với sự tham gia tích cực tại FABC của Giáo
hội Trung Quốc. Chúng tôi hiệp nhất với Giáo hội Trung Quốc trong lời cầu
nguyện cho mọi người của đất nước rộng lớn này được bình an, hưởng niềm vui và hy
vọng đã được Chúa Kitô mang đến.
Chúng
tôi hết lòng biết ơn tất cả anh chị em giáo dân, nam nữ tu sĩ, các linh mục và
giám mục đang thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng trong những hoàn cảnh khó khăn
nhất, thậm chí phải liều cả mạng sống. Tinh thần quả cảm và hết lòng phục vụ
Tin Mừng của anh chị em đã soi sáng và củng cố chúng tôi rất nhiều.
Tuần
lễ diễn ra Hội nghị thực sự là một Tuần Đức Tin. Ngọn lửa niềm tin của chúng
tôi vào Thiên Chúa đã bừng cháy thêm lên trước đức Tin sâu sắc và sống động của
dân Chúa tại Việt Nam
và qua câu chuyện của các vị tử đạo. Nhờ chứng từ cao cả của các vị tử đạo, sức
mạnh của đức Tin và đức Cậy đã ngời sáng.
Trong
ánh sáng của Lời Chúa, Hội nghị của chúng tôi nhận diện những nẻo đường thực
thi sứ vụ mà Chúa Thánh Thần soi dẫn. Được Thánh Thần hướng dẫn, chúng tôi đọc
các dấu chỉ thời đại, những trào lưu lớn trong xã hội tại châu Á và những thực
tại đang diễn ra trong Giáo hội của mình, đồng thời phân tích những thách đố và
cơ hội đang mở ra để có thể đáp ứng từ chiều sâu đức Tin của mình. Chúng ta
đang thực thi một sứ vụ rất khó khăn là loan báo Đức Giêsu là Chúa và là Đấng
Cứu thế giữa những thay đổi mau chóng tại châu Á. Vì lẽ đó, chúng ta càng phải
ý thức hơn nữa mình phải trở thành một cộng đoàn có kinh nghiệm về Đức Kitô và
làm chứng cho Đức Kitô. Trọng tâm công cuộc Tân Phúc âm hóa đã được Đức Chân
phước giáo hoàng Gioan Phaolô II khởi xướng và được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
tái khẳng định, chính là lời thúc giục hãy trở nên những chứng nhân đích thực
và đáng tin cậy về Đức Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng Cứu thế.
Chính
Thần khí đã từng thúc đẩy Công đồng Vatican II nay cũng đang hiệu triệu chúng
ta thành những sứ giả được đổi mới của
Tin Mừng để phục vụ công cuộc Tân Phúc âm hóa. Chính Thánh Thần là Đấng có
thể làm cho Giáo hội và từng người chúng ta nên mới. Chính Thánh Thần là Đấng giúp
chúng ta có thể đáp ứng một cách đáng tin và có hiệu quả trước các trào lưu xã
hội và những thực tại đang diễn ra trong Giáo hội đã được Hội nghị bàn đến.
Để
trở nên những thừa sai mới, chúng ta phải đáp lại Thần khí đang hoạt động tích
cực trong thế giới, trong sâu thẳm hiện hữu của chúng ta, trong các dấu chỉ
thời đại và trong tất cả những gì thực sự thuộc về con người. Chúng
ta cần phải sống linh đạo Tân Phúc âm hóa.
Chúng
tôi đề nghị với anh chị em một số chiều kích cơ bản của nền linh đạo này:
1. Gặp gỡ cá nhân với Đức Giêsu Kitô. Trước hết và trên hết, những sứ giả mới của Tin Mừng cần
phải có một đức Tin sống động, được xây dựng trên nền tảng cuộc gặp gỡ sâu xa,
cá vị và có sức biến đổi, với con người sống động của Đức Giêsu Kitô, một cuộc
gặp gỡ đem lại hiệu quả là bản thân được hoán cải và trở nên môn đệ của Chúa
Giêsu trong lời nói và việc làm. Tóm lại, chúng ta loan báo Đấng mình đã thấy,
đã nghe và chạm đến (x. 1 Ga 1, 1-3). Cuộc gặp gỡ cá vị này và đời sống người
môn đệ là điều hết sức cần thiết. Thiếu điều này, không ai có thể chạm đến cái
hồn của châu Á.
2. Say mê sứ vụ. Nếu chúng ta có mặt là để thi hành sứ vụ, thì chúng ta cần phải
có niềm say mê sứ vụ. Truyện kể về Giáo hội tại châu Á đan xen với truyện kể về
các vị thừa sai và các vị tử đạo. Các vị là những giáo dân, tu sĩ nam nữ và
hàng giáo sĩ đã dám liều mạng sống mình vì Đức Kitô. Câu chuyện về các ngài
thôi thúc và khích lệ chúng ta. Các ngài là hiện thân của niềm say mê truyền
giáo theo một cách thức mà loài người không thể làm được, nhưng đối với Thiên
Chúa thì hoàn toàn có thể (x. Lc 18, 27). Chân phước Gioan Phaolô II khẳng định:
“Một ngọn lửa chỉ có thể được thắp lên bởi chính một vật đang cháy lửa… (chúng
ta) phải cháy lửa tình yêu Chúa Kitô và lửa nhiệt thành mong ước làm cho Đức
Kitô được nhiều người nhận biết hơn, yêu mến hơn, bước theo sát Người hơn”
(Tông huấn Ecclesia in Asia, số 23). Lời Thánh Phaolô: “Tình yêu Ðức
Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5, 14) lay động cõi lòng chúng ta hãy chia sẻ
tình yêu khôn sánh của Chúa Giêsu cho toàn thể thế giới. Bởi lẽ chúng ta xác
tín rằng mọi niềm khao khát của các dân tộc Á châu đều được kiện toàn nơi Chúa
Giêsu, Đấng là Sự Sống.
3. Tập trung vào Nước Thiên Chúa. Việc loan báo Chúa Giêsu tác động đến mọi khía cạnh cuộc
sống và các tầng lớp xã hội –toàn bộ cuộc sống con người. Do đó linh đạo Tân
Phúc âm hóa không tách thế giới của chúng ta khỏi Triều đại của Thiên Chúa.
Không tách đời sống vật chất khỏi tôn giáo, cũng không làm cho đời sống đức Tin
xa lìa nghĩa vụ làm thay đổi đời sống chính trị và kinh tế xã hội. Trên hết,
linh đạo của sứ giả Tân Phúc âm hóa không tách Đức Giêsu Kitô ra khỏi Nước
Chúa, cũng không tách những giá trị của Nước Chúa ra khỏi Con người Đức Giêsu.
Tập trung vào Nước Thiên Chúa là trao bản thân mình cho Chúa Giêsu và tầm nhìn
của Người về một nhân loại mới đúng theo khuôn mẫu của Người.
4. Quyết tâm hiệp nhất. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho chúng ta được hiệp nhất với Chúa
Cha, với Người và với nhau (x. Ga 17, 20-22). Qua cuộc Khổ nạn, cái Chết và sự
Phục sinh của Người, Chúa Giêsu đã phục hồi mọi sự nơi chính mình Người, và đưa
nhân loại cùng toàn thể thụ tạo vào sự hiệp thông với Chúa Cha và Thánh Thần.
Như Chúa Giêsu, những nam nữ thừa sai Tân Phúc âm hóa cần phải sống và cổ võ sự
hiệp thông. Quả thật, linh đạo hiệp thông chính là linh đạo của
Tân Phúc âm hóa. Chân phước Gioan Phaolô II nhắc chúng ta nhớ “hiệp
thông và sứ vụ gắn kết với nhau không thể tách rời”. Thông hiệp với Thiên Chúa
Ba Ngôi “là nguồn mạch và là hoa trái của sứ vụ: hiệp thông đưa đến sứ vụ và sứ
vụ được hoàn tất trong hiệp thông” (Tông huấn Ecclesia in Asia, số 24, trích dẫn Thông điệp Christifideles laici,
số 32). Vì thế đây phải là phương châm của chúng ta: “hiệp thông vì sứ
vụ” và “sứ vụ vì hiệp thông” (Tông huấn Ecclesia in Asia, số 25). Các sứ giả Tin Mừng sẽ gặt hái kết
quả hữu hiệu khi sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và quảng đại dấn thân
làm chứng và cổ võ sống thông hiệp với Chúa, với nhau và với mọi thụ tạo.
Trong
bối cảnh châu Á đang tìm kiếm sự hài hòa giữa những căng thẳng và xung đột đang
gia tăng, mọi thành phần dân Chúa –giáo sĩ và giáo dân, nam cũng như nữ, giới
trẻ cũng như thiếu niên nhi đồng– đều được mời gọi trở thành những người loan
báo Tin Mừng, sứ giả của Lời Chúa, người kiến tạo hòa bình và xây dựng sự hiệp
thông. Một sự hiệp thông như vậy cần được thể hiện qua chính sự hiệp thông sống
động của các cộng đoàn giáo xứ và giáo phận.
5. Đối thoại, một phương cách sống và thi
hành sứ vụ. Công cuộc Tân Phúc âm hóa kêu
gọi lấy tinh thần đối thoại thúc đẩy cuộc sống hằng ngày và chọn tương quan hòa
hợp chứ không đối đầu. Đối thoại phải là tiêu chí cho mọi hình thức thực thi sứ
vụ và phục vụ tại châu Á. Đặc trưng của đối thoại là khiêm tốn nhận ra sự hiện
diện kín đáo của Thiên Chúa trong cuộc tranh đấu của người nghèo, trong sự
phong phú về văn hóa của nhân dân, trong sự đa dạng về truyền thống tôn giáo và
trong thẳm sâu cõi lòng mỗi người. Đối thoại như thế là lối sống và phương cách
truyền giáo của chúng ta. Đối thoại trở thành nền tảng cho nền linh đạo hiệp
thông nhằm canh tân sứ giả Tin Mừng.
6. Hiện diện khiêm hạ. Chúng tôi tin rằng mỗi người châu Á đều dự phần và đồng
hành trong cuộc hành trình tiến đến Nước Thiên Chúa, và tin rằng những cánh
đồng truyền giáo là những thửa đất có sự hiện diện và hoạt động lạ lùng của
Thánh Thần Thiên Chúa. Trên cánh đồng truyền giáo bao la tại châu Á, chứng từ
lặng lẽ nhưng hùng hồn của đời sống Kitô hữu đích thực đòi phải biết hiện diện
trong khiêm hạ, biết sống đối thoại, trong đó bao gồm cuộc sống cầu nguyện và
“chiêm niệm”. Đó là yêu cầu đặt ra cho các sứ giả mới của Tin Mừng, hoạt động
giữa những nền văn hóa đề cao sự bỏ mình và quý trọng cầu nguyện. Sự hiện diện
khiêm hạ phải được thể hiện bằng nếp sống giản dị và liên kết với người nghèo.
7. Vai trò ngôn sứ của người truyền giáo. Trở nên ngôn sứ là trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần,
nhận diện những nghịch lý tại châu Á và tố cáo bất cứ những gì làm suy yếu, hạ
thấp giá trị và tước bỏ phẩm giá của con cái Thiên Chúa. Những sứ giả mới của
Tin Mừng phải bảo vệ phẩm giá làm người của tất cả mọi người, nhất là của phụ
nữ, trẻ em và những người không có đủ điều kiện sống cho ra con người trong xã
hội châu Á chúng ta. Qua việc tố cáo bất công, những sứ giả mới của Tin Mừng loan
báo tình yêu của Thiên Chúa, “những điều quan trọng hơn trong Lề Luật” tức là
là công bình, lòng nhân từ và thành tín (Mt 23, 23), và tình yêu được Chúa
Giêsu dành ưu tiên cho người nghèo.
8. Liên đới với những nạn nhân. Trong Hội nghị, chúng tôi đã lưu ý con số các nạn nhân
của quá trình toàn cầu hóa, của bất công, của thảm họa hạt nhân và thiên tai,
của những cuộc tấn công do những kẻ cực đoan và khủng bố gây ra, con số ấy đang
gia tăng từng ngày. Chúa Giêsu đứng về phía nạn nhân của các thảm họa và bất
công. Người liên đới với những ai bị xã hội loại bỏ. Liên đới và xót thương
những nạn nhân và bị gạt ra ngoài lề xã hội phải trở thành chiều kích chính yếu
của linh đạo Tân Phúc âm hóa.
9. Chăm sóc tạo thành. Hội nghị cũng đã
lưu ý việc lạm dụng thiên nhiên vì lợi ích kinh tế thiển cận và ích kỷ vẫn chưa
được khắc phục. Những nguyên nhân do con người gây ra đã góp phần đáng kể làm
cho trái đất nóng lên và khí hậu thay đổi, khiến người nghèo và người bị bóc
lột phải hứng chịu những tác động bi đát hơn nữa. Mối quan tâm đến sinh thái,
việc bảo toàn công trình tạo dựng, bao gồm sự công bằng và đồng cảm giữa các
thế hệ, là yếu tố cơ bản trong linh đạo hiệp thông.
10. Can đảm sống đức Tin và tử đạo. Từ buổi đầu Kitô giáo có mặt đến nay, mảnh đất Á châu đã
thấm máu đào của các vị tử đạo. Nếu ngày nay chúng ta được mời gọi hãy đem sự
hy sinh cao cả mà làm chứng cho đức Tin, chúng ta sẽ không từ nan. Chúa Giêsu
đã căn dặn chúng ta, hy sinh như thế là dấu chứng tối hậu chúng ta tận trung
với Người và với sứ mạng của Người. Xin các vị tử đạo tại đất nước chúng ta, trong
đó có nhiều vị đã được tôn kính trên bàn thờ, giúp chúng ta biết noi gương các
ngài và chuyển cầu cho chúng ta được thêm mạnh sức. Chúng ta tri ân Đức Chân
phước giáo hoàng Gioan Phaolô II và Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã công bố
nhiều vị chứng nhân người Á châu là những đấng tử đạo của Giáo hội, “máu các vị tử đạo là hạt giống phát sinh
Kitô giáo”.
Kết luận
Trong
Năm Đức Tin này, vào thập niên thứ hai của thiên niên kỷ mới, nhân dịp kỷ niệm
40 năm FABC, chúng tôi kêu gọi mọi người thuộc các Giáo hội tại châu Á hãy nuôi
dưỡng niềm say mê đặc biệt đối với công cuộc Tân Phúc âm hóa.
Chúng
ta không được để mình thờ ơ hoặc bi quan trước những trào lưu xã hội tại châu Á
đang đe dọa cấu trúc xã hội, sự bền vững của gia đình và tầm nhìn đức Tin của
chính cộng đoàn Kitô hữu. Ẩn bên trong những thực tại này có thể là những nguồn
lực nội tại của Thánh Thần, đang hoạt động trong lòng những giá trị Á châu, là những
hạt giống của một nhân loại mới đang khao khát sự sống viên mãn trong Đức
Giêsu.
Sứ
vụ của công cuộc Tân Phúc âm hóa, mới trong nhiệt tâm, mới về phương pháp và
mới trong cách diễn tả, đang được đặt ra cấp thiết. Sứ vụ này kêu gọi các sứ
giả Tin Mừng phải canh tân đổi mới với một linh đạo được đổi mới, linh đạo hiệp
thông, linh đạo truyền giáo, linh đạo Tân Phúc âm hóa. Mỗi giáo xứ, mỗi cộng
đoàn, mỗi gia đình cần phải trở thành trường dạy nền linh đạo này. Sứ vụ này
đòi hỏi các nhà thừa sai mới phải sống hoán cải sâu sắc, phải thay đổi tầm nhìn
cũng như phải nên giống Đức Kitô trong tâm tư và thái độ, và phải hiệp thông
với Thiên Chúa. Sứ vụ này đòi hỏi phải có niềm tin sống động vào Chúa, phó thác
nơi Chúa, theo chân Chúa Giêsu từ trong tư tưởng, tình cảm đến hành động.
“Đoàn
chiên nhỏ bé” của Chúa Giêsu không được rụt rè hoặc sợ hãi giữa hàng tỉ người
châu Á, chiếm hơn 60% dân số thế giới. Bởi vì chúng ta có chính Đức Giêsu Kitô,
là nguồn duy nhất mang lại niềm tin cho chúng ta, là hồng ân độc đáo Thiên Chúa
ban cho loài người. Người đồng hành với chúng ta như đã từng đi với các môn đệ
trên đường đến Emmaus (x. Lc 24, 13-32). Trong mỗi cử hành Thánh Thể, Người mở
mắt và sưởi ấm trái tim chúng ta bằng ngọn lửa tình yêu đối với công cuộc Tân
Phúc âm hóa tại châu Á.
Xin
Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu và là Mẹ của chúng ta, đồng hành cùng chúng ta đang
bước đi trên những nẻo đường Á châu để “kể chuyện Chúa Giêsu”. Chúng ta không
sợ. Chúng ta đã được Chúa bảo đảm, “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14, 27).
Và chúng ta đã nhận được lời Người cam kết: “Hãy nhớ, Thầy ở cùng anh em mọi
ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
Xuân Lộc và TP.HCM, Việt Nam
Ngày 16 tháng Mười Hai 2012
Thành Thi chuyển ngữ