Lề Luật Thiên Chúa không phải là gánh nặng, mà là ơn thánh trao ban tự do và hạnh phúc cho con người
Lề Luật của Thiên Chúa không phải là gánh nặng, mà là ơn thánh trao ban tự do và hạnh phúc cho con người. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trước hơn 16.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 9-11-2011.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa thánh vịnh 119, là một thánh vịnh đặc biệt duy nhất, vì là thánh vịnh dài nhất gồm 176 câu và 22 đoạn, mỗi đoạn bắt đầu bằng một mẫu tự do thái. Đây là một cấu trúc đòi hỏi nơi tác giả nhiều tài khéo. Cả thánh vịnh là một bài ca chúc tụng Torah, tức là Lề Luật của Thiên Chúa. Torah là từ chung ám chỉ các giới răn, giáo huấn và chỉ thị Thiên Chúa ban cho dân Do thái. Đức Thánh Cha giải thích thêm về từ Torah như sau:
Torah là mạc khải, là Lời của Thiên Chúa mời gọi con người và khơi dậy tiếng đáp trả vâng lời tin tưởng và tình yêu quảng đại. Toàn thánh vịnh thấm đẫm tình yêu đối với Lời Chúa và cử hành vẻ đẹp, sức mạnh cứu độ và khả năng trao ban niềm vui và sự sống của Lời Chúa, bởi vì Lề Luật của Chúa không phải là gánh nặng mà là ơn thánh khiến cho con người được tự do và dẫn đưa con người tới hạnh phúc. Vì thế tác giả thánh vịnh mới hát lên: ”Con vui thú với thánh chỉ Ngài, chẳng quên lời Ngài phán” (c. 16); ”Trên đường mệnh lệnh Chúa xin dẫn con đi, vì con ưa thích đường lối đó” (c. 35); ”Luật pháp Ngài, lậy Chúa, con yêu con chuộng dường bao, suốt ngày cứ suy đi gẫm lại!” (c. 97). Luật Chúa là trung tâm cuộc sống của người cầu nguyện; ông tìm thấy nơi đó niềm an ủi, ông suy gẫm và gìn giữ nó trong tim: ”Lời Chúa hứa lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung” (c. 11). Và đó là bí quyết niềm hạnh phúc của ông.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: sự trung thành của tác giả thánh vịnh nảy sinh từ việc lắng nghe, giữ gìn, suy gẫm và yêu mến Lời Chúa, y như Mẹ Maria là Đấng ”đã gìn giữ, và suy đi gẫm lại trong lòng” những gì đã được nói với Mẹ và các biến cố tuyệt diệu, qua đó Thiên Chúa tự mạc khải bằng cách xin sự đồng ý của Mẹ (x. Lc 2,19.51). Nếu trong các câu đầu thánh vịnh 119 công bố ”hạnh phúc thay” ”ai biết noi theo luật pháp Chúa Trời” và ”kẻ tuân hành ý Chúa”, thì cũng chính Mẹ Maria là người đã chu toàn gương mặt hoàn bảo của tín hữu được thánh vịnh miêu tả. Thật thế, Mẹ thực là người ”có phúc” như bà Elidabét đã kêu lên, vì Mẹ ”đã tin vào sự thành toàn của những gì Chúa đã phán với Mẹ” (Lc 1,45). Và chính Chúa Giêsu cũng làm chứng điều này, khi trả lời cho người đàn bà đã kêu lên ”Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm”: ”Những ai nghe và thực hành lời Chúa lại còn hạnh phúc hơn” (Lc 11,27-28). Dĩ nhiên Mẹ Maria có phúc vì lòng Mẹ đã cưu mang Đấng Cứu Thế, nhưng nhất là bởi vì Mẹ đã lắng nghe lời Thiên Chúa loan báo, vì Mẹ đã chú ý và yêu thương giữ gìn Lời Chúa trong tim.
Như thế thánh vịnh 119 được dệt thành chung quanh Lời sự sống và hạnh phúc. Đề tài chính của nó là ”Lời” và là ”Luật” của Chúa bên cạnh các từ đồng nghĩa với ”điều luật”, ”chiếu chỉ”, ”giới răn”, ”giáo huấn”, ”lời hứa”, ”sự phán xử” và biết bao nhiêu động từ liên hệ như tuân giữ, giữ gìn, hiểu biết, mến yêu, suy gẫm và sống... Toàn từ vựng của thánh vịnh diễn tả tương quan tin tưởng của tín hữu với Thiên Chúa, và chúng ta tìm thấy trong đó lời chúc tụng, tạ ơn, lòng tín thác cũng như sự khẩn nài và kêu than chất chứa đầy xác tín về ơn thánh và quyền năng của Lời Chúa. Cả các câu đượm đầy khổ đau và tăm tối cũng rộng mở cho niềm hy vọng và thấm nhuần đức tin: tác giả tin tưởng cầu nguyện như sau: ”Tấm thân này bị nhận xuống bùn đen, theo lời Ngài xin cho con được sống” (C. 25); ”Dù có như bầu da gác bếp, con cũng chẳng quên huấn lệnh Ngài” (c. 83); ”Con sẽ đối đáp với người lăng nhục, vì con tin cậy ở nơi Ngài” (C. 42). Cả trước viễn tượng âu lo của cái chết, tác giả vẫn kiên trì khẳng định rằng luật Chúa là điểm tham chiếu và niềm hy vọng chiến thắng của ông: ”Một chút nữa là chúng diệt con trên đất này, nhưng con chẳng bỏ huấn lệnh Ngài ban” (c. 87).
Luật Chúa là đối tượng tình yêu thương đam mê của tác giả thánh vịnh và của mọi tín hữu. Nó là suối nguồn sự sống. Ước mong hiểu biết, tuân giữ và hướng tới Lề Luật là đặc thái cung cách sống của người công chính và trung thành với Thiên Chúa. Nó là một luật phải giữ trong tim, như lời kinh Shơma trong sách Đệ Nhị Luật dậy: ”Nghe đây, hỡi Israel. Giavê Thiên Chúa chúng ta là Giavê duy nhất. Hãy yêu mến Giavê Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng. Anh em phải lập lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như khi đi đường, lúc đi ngủ cũng như khi thức dậy” (Đnl 6,4.6-7). Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:
Là trung tâm cuộc sống, Lề Luật của Thiên Chúa đòi hỏi sự lắng nghe của con tim, một sự lắng nghe bao gồm việc vâng lời không phải như nô lệ nhưng với tình con thảo, tin tưởng và ý thức. Việc lắng nghe Lời Chúa là sự gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa của sự sống, một cuộc gặp gỡ phải được diễn tả ra bằng các lựa chọn cụ thể và trở thành việc theo Chúa. Khi người thanh niện hỏi Chúa Giêsu cho biết phải làm gì để được sống đời đời, Chúa chỉ cho anh thấy con đường tuân giữ Lề Luật, nhưng cũng cho thấy làm thế nào để đưa nó tới sự toàn vẹn: ”Con chỉ còn thiếu có một điều thôi: hãy về bán hết của cải đem cho người nghèo, con sẽ có một kho tàng ở trên trời, và hãy tới theo Ta” (Mc 10,21). Việc thành toàn Lề Luật là theo Chúa Giêsu, bước đi trên con đường của Chúa Giêsu, đồng hành với Người.
Như thế thánh vịnh 119 dẫn đưa chúng ta tới chỗ gặp gỡ Chúa và hướng chúng ta tới Tin Mừng.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã lôi kéo sự chú ý của mọi người tới câu 57 của thánh vịnh: ”Lậy Chúa con đã nói phần của con là tuân giữ lời Ngài”. Trong nhiều thánh vịnh khác tín hữu cũng khẳng định Chúa là ”phần”, là gia tài của họ, như thánh vịnh 16: ”Lậy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con” (Tv 16,5) hay thánh vịnh 142: ”Lậy Chúa, chính Ngài là nơi con trú ẩn, là phần của riêng con trong cõi đất đành cho kẻ sống” (Tv 143,6).
Từ ”phần” ghi lại việc phân chia Đất Hứa cho các chi tộc, nhưng chi tộc Levi không nhận được phần đất nào cả, vì ”phần ”của họ là chính Thiên Chúa. Đây là điều đã được nói đến trong sách Dân Số: ”Giavê phán với ông Aharon: ”Đất chia cho chúng ngươi sẽ không có phần; ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và chính Ta là gia nghiệp của ngươi giữa con cái Israel” (Ds 18,20). Sách Đệ Nhị Luật nhắc lại cho con cái Israel biết sự kiện này như sau: ”Vì thế chi tộc Levi đã không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em mình; chính Giavê là gia nghiệp của họ, như Giavê Thiên Chúa của anh em, đã phán với họ” (Đnl 10,9; Đnl 18,2; Gs 13,33; Ed 44,28).
Các thầy Levi là các người trung gian của sự thánh thiêng và phúc lành của Thiên Chúa, không thể có của cải như các người Israel khác. Đây là dấu chỉ bề ngoài của phúc lành và suối nguốn sự tồn tại. Là những người đã tận hiến cho Thiên Chúa họ phải sống vì Người mà thôi, tín thác cho tình yêu quan phòng của Người và lòng quảng đại của các tín hữu, mà không có gia nghiệp, bởi vì Thiên Chúa là phần gia nghiệp của họ...
Các lời này cũng quan trọng đối với tất cả chúng ta ngày nay. Trước hết là đối với các linh mục được mời gọi chỉ sống vì Chúa và Lời Người mà thôi, không có các bảo đảm nào khác nhưng chỉ có Chúa là hạnh phúc và nguồn sự sống duy nhất. Dưới ánh sáng của lời này chúng ta phải hiểu và tái khám phá ra vẻ đẹp của sự lựa chọn tự do sống độc thân vì Nước Trời. Nhưng các lời trên đây cũng quan trọng đối với tất cả mọi tín hữu, dân Chúa chỉ thuộc về Người mà thôi, và là ”vương quốc tư tế” của Chúa (x. 1 Pr 2,9; Kh 1,6; 5,10), được mời gọi sống tính cách triệt để của Tin Mưng, làm chứng nhân cho cuộc sống được Chúa Kitô dẫn đưa. Chúa và Lời Người đó là ”đất” của chúng ta, trong đó chúng ta sống trong sự hiệp thông và niềm vui.
Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau trước khi cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh mọi người.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa thánh vịnh 119, là một thánh vịnh đặc biệt duy nhất, vì là thánh vịnh dài nhất gồm 176 câu và 22 đoạn, mỗi đoạn bắt đầu bằng một mẫu tự do thái. Đây là một cấu trúc đòi hỏi nơi tác giả nhiều tài khéo. Cả thánh vịnh là một bài ca chúc tụng Torah, tức là Lề Luật của Thiên Chúa. Torah là từ chung ám chỉ các giới răn, giáo huấn và chỉ thị Thiên Chúa ban cho dân Do thái. Đức Thánh Cha giải thích thêm về từ Torah như sau:
Torah là mạc khải, là Lời của Thiên Chúa mời gọi con người và khơi dậy tiếng đáp trả vâng lời tin tưởng và tình yêu quảng đại. Toàn thánh vịnh thấm đẫm tình yêu đối với Lời Chúa và cử hành vẻ đẹp, sức mạnh cứu độ và khả năng trao ban niềm vui và sự sống của Lời Chúa, bởi vì Lề Luật của Chúa không phải là gánh nặng mà là ơn thánh khiến cho con người được tự do và dẫn đưa con người tới hạnh phúc. Vì thế tác giả thánh vịnh mới hát lên: ”Con vui thú với thánh chỉ Ngài, chẳng quên lời Ngài phán” (c. 16); ”Trên đường mệnh lệnh Chúa xin dẫn con đi, vì con ưa thích đường lối đó” (c. 35); ”Luật pháp Ngài, lậy Chúa, con yêu con chuộng dường bao, suốt ngày cứ suy đi gẫm lại!” (c. 97). Luật Chúa là trung tâm cuộc sống của người cầu nguyện; ông tìm thấy nơi đó niềm an ủi, ông suy gẫm và gìn giữ nó trong tim: ”Lời Chúa hứa lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung” (c. 11). Và đó là bí quyết niềm hạnh phúc của ông.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: sự trung thành của tác giả thánh vịnh nảy sinh từ việc lắng nghe, giữ gìn, suy gẫm và yêu mến Lời Chúa, y như Mẹ Maria là Đấng ”đã gìn giữ, và suy đi gẫm lại trong lòng” những gì đã được nói với Mẹ và các biến cố tuyệt diệu, qua đó Thiên Chúa tự mạc khải bằng cách xin sự đồng ý của Mẹ (x. Lc 2,19.51). Nếu trong các câu đầu thánh vịnh 119 công bố ”hạnh phúc thay” ”ai biết noi theo luật pháp Chúa Trời” và ”kẻ tuân hành ý Chúa”, thì cũng chính Mẹ Maria là người đã chu toàn gương mặt hoàn bảo của tín hữu được thánh vịnh miêu tả. Thật thế, Mẹ thực là người ”có phúc” như bà Elidabét đã kêu lên, vì Mẹ ”đã tin vào sự thành toàn của những gì Chúa đã phán với Mẹ” (Lc 1,45). Và chính Chúa Giêsu cũng làm chứng điều này, khi trả lời cho người đàn bà đã kêu lên ”Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm”: ”Những ai nghe và thực hành lời Chúa lại còn hạnh phúc hơn” (Lc 11,27-28). Dĩ nhiên Mẹ Maria có phúc vì lòng Mẹ đã cưu mang Đấng Cứu Thế, nhưng nhất là bởi vì Mẹ đã lắng nghe lời Thiên Chúa loan báo, vì Mẹ đã chú ý và yêu thương giữ gìn Lời Chúa trong tim.
Như thế thánh vịnh 119 được dệt thành chung quanh Lời sự sống và hạnh phúc. Đề tài chính của nó là ”Lời” và là ”Luật” của Chúa bên cạnh các từ đồng nghĩa với ”điều luật”, ”chiếu chỉ”, ”giới răn”, ”giáo huấn”, ”lời hứa”, ”sự phán xử” và biết bao nhiêu động từ liên hệ như tuân giữ, giữ gìn, hiểu biết, mến yêu, suy gẫm và sống... Toàn từ vựng của thánh vịnh diễn tả tương quan tin tưởng của tín hữu với Thiên Chúa, và chúng ta tìm thấy trong đó lời chúc tụng, tạ ơn, lòng tín thác cũng như sự khẩn nài và kêu than chất chứa đầy xác tín về ơn thánh và quyền năng của Lời Chúa. Cả các câu đượm đầy khổ đau và tăm tối cũng rộng mở cho niềm hy vọng và thấm nhuần đức tin: tác giả tin tưởng cầu nguyện như sau: ”Tấm thân này bị nhận xuống bùn đen, theo lời Ngài xin cho con được sống” (C. 25); ”Dù có như bầu da gác bếp, con cũng chẳng quên huấn lệnh Ngài” (c. 83); ”Con sẽ đối đáp với người lăng nhục, vì con tin cậy ở nơi Ngài” (C. 42). Cả trước viễn tượng âu lo của cái chết, tác giả vẫn kiên trì khẳng định rằng luật Chúa là điểm tham chiếu và niềm hy vọng chiến thắng của ông: ”Một chút nữa là chúng diệt con trên đất này, nhưng con chẳng bỏ huấn lệnh Ngài ban” (c. 87).
Luật Chúa là đối tượng tình yêu thương đam mê của tác giả thánh vịnh và của mọi tín hữu. Nó là suối nguồn sự sống. Ước mong hiểu biết, tuân giữ và hướng tới Lề Luật là đặc thái cung cách sống của người công chính và trung thành với Thiên Chúa. Nó là một luật phải giữ trong tim, như lời kinh Shơma trong sách Đệ Nhị Luật dậy: ”Nghe đây, hỡi Israel. Giavê Thiên Chúa chúng ta là Giavê duy nhất. Hãy yêu mến Giavê Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng. Anh em phải lập lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như khi đi đường, lúc đi ngủ cũng như khi thức dậy” (Đnl 6,4.6-7). Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:
Là trung tâm cuộc sống, Lề Luật của Thiên Chúa đòi hỏi sự lắng nghe của con tim, một sự lắng nghe bao gồm việc vâng lời không phải như nô lệ nhưng với tình con thảo, tin tưởng và ý thức. Việc lắng nghe Lời Chúa là sự gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa của sự sống, một cuộc gặp gỡ phải được diễn tả ra bằng các lựa chọn cụ thể và trở thành việc theo Chúa. Khi người thanh niện hỏi Chúa Giêsu cho biết phải làm gì để được sống đời đời, Chúa chỉ cho anh thấy con đường tuân giữ Lề Luật, nhưng cũng cho thấy làm thế nào để đưa nó tới sự toàn vẹn: ”Con chỉ còn thiếu có một điều thôi: hãy về bán hết của cải đem cho người nghèo, con sẽ có một kho tàng ở trên trời, và hãy tới theo Ta” (Mc 10,21). Việc thành toàn Lề Luật là theo Chúa Giêsu, bước đi trên con đường của Chúa Giêsu, đồng hành với Người.
Như thế thánh vịnh 119 dẫn đưa chúng ta tới chỗ gặp gỡ Chúa và hướng chúng ta tới Tin Mừng.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã lôi kéo sự chú ý của mọi người tới câu 57 của thánh vịnh: ”Lậy Chúa con đã nói phần của con là tuân giữ lời Ngài”. Trong nhiều thánh vịnh khác tín hữu cũng khẳng định Chúa là ”phần”, là gia tài của họ, như thánh vịnh 16: ”Lậy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con” (Tv 16,5) hay thánh vịnh 142: ”Lậy Chúa, chính Ngài là nơi con trú ẩn, là phần của riêng con trong cõi đất đành cho kẻ sống” (Tv 143,6).
Từ ”phần” ghi lại việc phân chia Đất Hứa cho các chi tộc, nhưng chi tộc Levi không nhận được phần đất nào cả, vì ”phần ”của họ là chính Thiên Chúa. Đây là điều đã được nói đến trong sách Dân Số: ”Giavê phán với ông Aharon: ”Đất chia cho chúng ngươi sẽ không có phần; ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và chính Ta là gia nghiệp của ngươi giữa con cái Israel” (Ds 18,20). Sách Đệ Nhị Luật nhắc lại cho con cái Israel biết sự kiện này như sau: ”Vì thế chi tộc Levi đã không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em mình; chính Giavê là gia nghiệp của họ, như Giavê Thiên Chúa của anh em, đã phán với họ” (Đnl 10,9; Đnl 18,2; Gs 13,33; Ed 44,28).
Các thầy Levi là các người trung gian của sự thánh thiêng và phúc lành của Thiên Chúa, không thể có của cải như các người Israel khác. Đây là dấu chỉ bề ngoài của phúc lành và suối nguốn sự tồn tại. Là những người đã tận hiến cho Thiên Chúa họ phải sống vì Người mà thôi, tín thác cho tình yêu quan phòng của Người và lòng quảng đại của các tín hữu, mà không có gia nghiệp, bởi vì Thiên Chúa là phần gia nghiệp của họ...
Các lời này cũng quan trọng đối với tất cả chúng ta ngày nay. Trước hết là đối với các linh mục được mời gọi chỉ sống vì Chúa và Lời Người mà thôi, không có các bảo đảm nào khác nhưng chỉ có Chúa là hạnh phúc và nguồn sự sống duy nhất. Dưới ánh sáng của lời này chúng ta phải hiểu và tái khám phá ra vẻ đẹp của sự lựa chọn tự do sống độc thân vì Nước Trời. Nhưng các lời trên đây cũng quan trọng đối với tất cả mọi tín hữu, dân Chúa chỉ thuộc về Người mà thôi, và là ”vương quốc tư tế” của Chúa (x. 1 Pr 2,9; Kh 1,6; 5,10), được mời gọi sống tính cách triệt để của Tin Mưng, làm chứng nhân cho cuộc sống được Chúa Kitô dẫn đưa. Chúa và Lời Người đó là ”đất” của chúng ta, trong đó chúng ta sống trong sự hiệp thông và niềm vui.
Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau trước khi cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh mọi người.
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét