Các
giá trị tinh thần và tôn giáo
trong
cuộc sống con người
Roma
(Avvenire 15-5-2012; RG 16-5-2012; Vat. 21-5-2012) - Phỏng vấn triết gia
Francesco Torralba Rosellò, người Tây Ban Nha.
Ngày
17 tháng 5 năm 2012 đại hội "Sân của dân ngoại"
đối thoại với những người không tin về đề tài "Nghệ
thuật, vẻ đẹp và sự siêu việt" đã khai diễn tại
Barcelona bên Tây Ban Nha. Ðại hội đã do Hội Ðồng Tòa Thánh
Văn Hóa tổ chức với sự tham dự của hàng trăm nghệ sĩ
và chuyên gia thuộc nhiều bộ môn khác nhau, kể cả các
triết gia và chính trị gia.
Trong
số các tham dự viên có triết gia Francesco Torralba Rosellò,
người Tây Ban Nha, giáo sư đại học Ramon Lluli Barcelona. Giáo
sư thuyết trình về đề tài "Con đường từ vẻ đẹp
tới tình yêu". Giáo sư sinh năm 1967 tại Barcelona, theo học
tại đại học Barcelona và Kopenhagen, có bằng tiến sĩ trết
học và thần học. Giáo sư là tác giả của hàng chục cuốn
sách được độc giả ưa thích, trong đó có các cuốn như:
"Các gương mặt của sự thinh lặng"; "Một trăm
giá trị để sống" (2001); "Khám phá ý nghĩa thực
tại" (2000); "Giá trị và ý nghĩa hoạt động giáo dục"
(2001); "Luân lý đạo đức của việc săn sóc" (2001);
"Có thể có một thế giới mới không?" (2003); "Ðâu
là phẩm giá con người?" (2004); "Cha mẹ và con cái"
(2003); "Lá thư của một đứa con chưa có tên" (2005);
"Ý nghĩa dân trí toàn cầu giải thích cho các con tôi"
(2005); "Nghệ thuật biết lắng nghe" (2006); Loạt sách về
các đề tài: Sự tha thứ, tình bạn, sự thanh thản, lòng
trắc ẩn (2008); "Hòa bình, dấn thân" (2011); "Nhìn
thẳng mặt cái chết" (2008); "Bình tĩnh trong một thế
giới không bình tĩnh" (2009); "Sự thông minh tinh thần"
(2010) Ðức Giêsu Kitô" (2011); "Tình yêu đến từ bên
trong" (2011); "Với Thiên Chúa hay là không Thiên Chúa"
(2012). Hai cuốn sách mới được xuất bản tại Tây Ban Nha là
"Cái luận lý của qùa tặng" và "Cuộc sống tinh
thần trong xã hội vi tính". Sau đây chúng tôi xin gửi
tới qúy vị bài phỏng vấn giáo sư về đại hội này.
Hỏi:
Thưa giáo sư Rosellò, tại sao Barcelona lại đươc chọn làm nơi
tổ chức đại hội "Nghệ thuật, vẻ đẹp và sự siêu
việt"?
Ðáp:
Tôi tin rằng đây là một sự lựa chno tốt, đặc biệt bởi
vì Barcelona là vùng đất của sự đối thoại, một vùng đất
chung sống giữa các hình thái tinh thần tu đức khác nhau, và
nhất là nó diễn tả sự đối thoại từ bao thế kỷ nay
giữa những người tin và người không tin, nhất là bởi
vì đối tượng của công việc làm, vẻ đẹp là một điểm
gặp gỡ chung giữa những người tin và những người không
tin, một tụ điểm gặp gỡ thực sự, nơi con người có thể
suy tư về cái nối kết hai cộng đoàn, nhất là nó liên kết
con người lại với nhau, một cách độc lập với diều họ
tin.
Hỏi:
Như thế, chúng ta có thể nói rằng vẻ đẹp vén mở cho
thấy Thiên Chúa hay không, thưa giáo sư?
Ðáp:
Vẻ đẹp là viễn tượng của những người tin nơi Thiên
Chúa. Ðối với riêng tôi, thì tôi thấy "vẻ đẹp của
sự tự nhiên, vẻ đẹp của nghệ thuật, vẻ đẹp của âm
nhạc" đã là một biểu lộ, một mạc khải vẻ đẹp của
Thiên Chúa rồi. Nhưng trong viễn tượng "đời" của
những người không tin, thì vẻ đẹp là một lời mời gọi
hướng tới siêu việt, hướng tới mầu nhiệm, hướng tới
suy tư. Nó như một biểu tượng khiến chúng ta nghĩ tới
điều chúng ta là, đâu là ý nghĩa của cuộc sống, đâu là
nền tảng cuối cùng của chúng ta. Ðiều này không có nghĩa
là chúng ta trực tiếp đến với Thiên Chúa, nhưng tôi cũng
tin rằng những người không tin trông thấy nơi vẻ đẹp một
con đường dẫn đưa tới mầu nhiệm, ít nhất là mầu nhiệm
về thế giới.
Hỏi:
Theo giáo sư, đâu là ngôn ngữ mà ngày nay tín hữu phải
dùng, nếu muốn gặp gỡ những người không tin?
Ðáp:
Ngôn ngữ mà tín hữu dùng phái là một thứ ngôn ngữ
rõ ràng, một thứ ngôn ngữ không kỹ thuật, có thể đến
với tất cả mọi người. Ngôn ngữ kỹ thuật hay ngôn ngữ
bên trong giáo hội là một thứ ngôn ngữ thường không
hiểu nổi đối với những người khác. Nó là một thứ
ngôn ngữ có một truyền thống, một sức mạnh biểu tượng,
một gia tài tích tụ trong bao thế kỷ, được làm bởi biết
bao nhiêu ý niệm khác nhau, mà người ta thường không biết,
người ta không biết các văn bản kinh thánh, và thực tế
là người ta "mù chữ biểu tượng", một người mù
không thể đọc hiểu được ý nghĩa của nó. Vì thế ngôn
ngữ phải rất rõ ràng. Nó phải là thứ ngôn ngữ đi từ
các điều nòng cốt nhất của Ðức tin, nghĩa là sứ điệp
thực sự phản ánh nòng cốt của kinh Tin Kính. Tôi nghĩ rằng
đó là sứ điệp của Chúa Giêsu. Ngôn ngữ của Chúa
Giêsu là một thứ ngôn ngữ cho tất cả mọi người. Nhất
là trong việc giảng dậy của Người, Chúa Giêsu đã nói qua
các dụ ngôn, các biểu tượng, bằng cách tìm tới với
tất cả mọi người qua các hình ảnh, kể cả những người
không được học hành, không biết đọc biết viết. Ngôn
ngữ mà tín hữu dùng phải là thứ ngôn ngữ như vậy,
một thứ ngôn ngữ thích hợp với con người ngày nay.
Hỏi:
Thưa giáo sư, trong các cuốn sách của mình giáo sư hay chú ý
tới các đề tài cuộc sống tinh thần rộng mở cho tất cả
mọi người như: sự thinh lặng, xã hội vi tính, qùa tặng
vv... Ðây là một kiểu nghiên cứu rất gần với tinh thần
đối thoại với những người không tin của tổ chức "Sân
của dân ngoại". Tại sao vây?
Ðáp:
Việc nghiên cứu triết học của tôi cố gắng rộng mở và
có thể thấm nhập đối với mọi người. Tôi cho rằng nhiệm
vụ triết gia là thăng tiến tư tưởng và suy tư về các vấn
nạn của con người mà mỗi một người đều đặt ra, vượt
ngoài các xác tín tinh thần của mình. Nhiệm vụ của tôi là
ở ngoài biên giới là nơi sáng tạo, nơi có thể chia sẻ
và đối thoại. Theo tôi mỗi người đều có một chiều kích
tinh thần có thể được sắp xếp và phát triển theo nhiều
cách khác nhau, tùy theo các bối cảnh và tiểu sử.
Hỏi:
Thế thì có cái gì chung cho các tín hữu và các nhà nhân
văn?
Ðáp:
Cảm giác nuối tiếc, ước mong hạnh phúc, sự cần thiết
đối chiếu và nỗi sợ hãi là các kinh nghiệm hàng ngày
của tất cả mọi người, khiến cho chúng ta trở thành anh em
với nhau trong cuộc sống. Tôi nghĩ tôn giáo là tương quan
vượt cao hơn chính mình, gắn liền con người với một thực
tại khác, mà chúng ta gọi là mầu nhiệm tuyệt đối.
Hỏi:
Trong cuốn sách nói về sự thinh lặng giáo sư đã trích dẫn
nhà tư tưởng Ludwig Wittgenstein nhiều lần, tại sao vây?
Ðáp:
Wittgenstein là một tư tưởng gia tinh thần rất sâu sắc. Chỉ
cần đọc các sách tiểu sử của ông hồi trước đệ nhất
thế chiến và cuốn "Khảo luận luận lý triết học"
thì biết. Ông cho thấy các hẹn hẹp của ngôn ngữ khoa học,
và hiểu rằng thinh lặng là thái độ tốt nhất đứng
trước mầu nhiệm của thực tại. Tôi thấy thái độ thận
trọng và chú ý này đối với những gì vượt cao hơn lý
lẽ khoa học rất là hay. Học giả Wittgenstein thừa nhận rằng
không thể là "khoa học" về ý nghĩa cuộc sống, nhưng
tới lượt nó, câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống lại nghiêm
trọng và lôi cuốn xúc động nhất mà một người có thể
đưa ra.
Hỏi:
Như thế con người tôn giáo có thể khám phá ra "một
cái gì hơn nữa" nơi một người không có nó, thưa giáo
sư?
Ðáp:
Chắc chắn rồi. Trong đối thoại tín hữu khám phá ra nhiều
yếu tố rất hay. Trước hết họ nhận ra rằng các người
không tin làm thành một thế giới rất khác nhau. Có những
người thờ ơ, nhưng cũng có những người rời xa, có
những người chủ trương vô ngộ nhưng vẫn tìm kiếm hiểu
biết, nhưng cũng có những người đầy uất hận, rất hay chỉ
trích tôn giáo vì các lý do tiểu sử. Trong cuộc đối thoại
với những người không tin, tín hữu bị bắt buộc diễn tả
điều nòng cốt và tinh tuyền nhất của lòng tin. Ngoài ra,
cần phải làm điều đó một cách rất rõ ràng và khiêm
tốn, với các từ vựng đời, vì đó là cách duy nhất tìm
ra một môi trường được chia sẻ.
Hỏi:
Thưa giáo sư Rosellò, Barcelona là một trong các vùng bị tục
hóa nhất Âu châu. Làm thế nào để khiến cho Tin Mừng
đáng được tin cậy trên bình diện văn hóa?
Ðáp:
Tôi nghĩ cần phải tìm ra các đề tài hiện sinh và lý lẽ
thực tiễn, mà không quên các lý do có lý sự, để trở
thành tín hữu kitô. Việc thuyết phục là điều rất quan
trọng, nhưng đề tài tốt nhất là chỉ cho thấy rằng Kitô
giáo là một đề nghị đối với niềm hạnh phúc của thế
giới, một sự thông truyền sự sống, như triết gia Kirkegaard
đã nói: một trình thuật ý nghĩa khi được tháp nhập vào
con người, trở thành suối nguồn của sự an bình thanh thản,
và trao ban. Tín hữu kitô đáng tin cậy, khi sống tươi vui
điều mình đã kinh nghiệm, khi cho thế giới thấy cuộc gặp
gỡ cá nhân với Thiên Chúa và với vị mà thánh Agostino
goi là "Vị Thầy nội tâm", biến thành suối nguốn bình
an cho linh hồn, và đem lại hòa bình cho thế giới.
Hỏi:
"Sự tự do đích thật nhất là lòng biết ơn", giáo
sư đã viết trong cuốn sách về "món qùa". Ngày nay
xem ra là điều ngược lại. Ðâu là các thí dụ cụ thể
của sự tự do này thưa giáo sư?
Ðáp:
Sự tự do được tìm thấy trong việc giải phóng khỏi cái
tôi, bằng cách sống dưới suối nguồn của lòng tốt, hiện
diện trong nơi sâu thẳm của từng người. Nó có nghĩa là
nộp mình cho tha nhân, mà không tính toán cũng không hy vọng
gì cả. Sự trao ban chính mình thực là con đường của niềm
hạnh phúc. Hạnh phúc không hệ tại chỗ chiếm hữu, cũng
không hệ tại hoạt động tập trung vào chính mình và thực
hiện các ước mong của riêng mình: đó là sự phóng đãng
chứ không phải tự do. Tự do là người sống mà không có
các thành kiến, và mẫu sẵn, không bị thúc đẩy bởi tính
toán lợi lộc, nhưng bởi sự trao ban, trao ban lớn hơn là
tình yêu thương chia sẻ. Chúa Giêsu là mẫu mực sự tự do
của con người tôi, nhưng cả thánh Phanxicô thành Assisi,
thánh Massimiliano Kolbe và thánh Edith Stein nữa là những
người đã sống theo viễn tượng trao ban tận hiến nhưng
không này.
(Avvenire
15-5-2012; RG 16-5-2012)
Linh
Tiến Khải
(Radio
Vatican)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét